Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

TU

TU !

        TU…có ba bảy đường tu! Tu có 84 ngàn pháp môn! Tu đạo khó quá ! Nhiều quá hơi rối!
        Nếu chiếc xe hư ít: ta tiểu tu. Nếu chiếc xe hư nhiều: ta đại tu.
        “TU” là sửa (se corriger)…là chỉnh đốn lại (arranger)…là luyện tập (s’exercer) sao cho mỗi ngày mỗi hoàn chỉnh hơn (se perfectionner) để sống đời tử tế hơn. Đó là cách tu dân dã sao người cho ra “người”: không môn phái, không nghi thức, không kinh điển, không sư phụ, không gourou….không trụ, không bám, không vọng, không cầu, không mong gieo hạt để ngày sau hái quả thụ hưởng công lao. Không tích đức, không góp hạnh: không cho vay ăn lời! Đó là phép tu thân.
        Tu thân vốn một chữ THÀNH. Thành là không dối lòng, không dối người…biết mắc cỡ, biết hổ thẹn, biết xấu hỗ, biết nhục…Thành cho nên thực: ấy là thành thực. Thành thực là quyết một lòng với sự thực. Có nói có, không nói không. Không “nói không thành có”, không “nói có thành không”. “Biết nói biết, không biết nói không biết: ấy mới thật là biết” [Khổng tử: Luận Ngữ]…ấy là Thành vậy!
        Tu là để chỉnh lại cái nhân cách của mình đang bị lạc lối, nối lại dây mắc cỡ lỡ bị đứt. Có nhận ra mình đang lạc lối, có biết dây mắc cỡ bị đứt thì chỉ có một lòng thành mới nhận ra thôi. Ta biết ta là vậy. Vậy hãy “connais-toi, toi même” [Socrate] (= hãy tự biết lấy mình đi, bạn ơi)
        Cái gì nó phủ che ta cho ta không nhận ra mình? Chỉ có cái lợi cho riêng ta – cái nhân dục ấy – mới làm cho ta mờ tâm tối trí…không còn nhận ra phải trái/đúng sai...tức thuộc thời tiền Eva: chưa ăn trái cấm…cái trái phân biệt điều thiện điều ác đó…mà Vương Dương Minh định nghĩa: “tri thiện tri ác: tức thị lương tri”.
Cứ theo con đường lương tri ắt gặp chữ Thành. Chữ Thành nó nằm trong cái chiêu linh minh giác của chúng ta tức cái minh kính đài chính là cái linh đài phương thốn: là cái tất lòng tức cái tâm linh của con người; và tắt một lời, ấy là “tâm của nhân loại”.
Để biểu hiện cái tâm ấy, người Trung hoa, bằng cái ngôn ngữ biểu tượng vẽ ra “ba sao chầu trăng khuyết” gọi là “tà nguyệt tam tinh”.
        “Tiếng Lòng là bản giao hưởng tiếng nói chung của nhân loại mà tự thâm tâm của mỗi người là từng giai điệu trong cùng một hòa âm”
        Cho nên người đời thường nói: “tu tâm dưỡng tính” là sửa cho ngay, cho chính cái tâm…cái tâm chung của nhân loại, chứ không phải cái tâm biện biệt đầy nhân dục của riêng ta…thì mới nuôi, mới dưỡng được cái “tính”…là cái nhân loại tính tức cái “nhân tính” của mình.
        Nhân tính là gì? - “Nhân tính”: ấy là lương tri!
        Người Việt Nam tính hay thích đùa…mà lại hay đùa chữ…vậy mà đôi lúc cũng thấy hay hay. Họ bảo: trong “con người” có hai phần: phần “con” và phần “người”. “Con” là con vật…phần “động vật tính”; còn “người” là cái “nhân loại tính” của một con người.
Đấy là một cách ám chỉ: con người (nhân loại) có hai bản năng: “bản năng sinh vật” (động vật tính = thú tính) và “bản năng văn hóa” (nhân loại tính = nhân tính).
Chính cái bản năng văn hóa mới hình thành nên nhân tính…tính người. Tính người tích tụ thành cái lương tri. Hay nói cách khác: lương tri là nhân tính.
        Chính sự tiến hóa đã đưa con người từ một sinh vật cấp thấp lên thành một sinh vật cấp cao. Và cái diễn trình ấy được hình thành như thế nào?
        [“ Chẳng phải bất ngờ trong hư cấu tưởng tượng mà một con khỉ sinh ra từ đá, nhưng ấy là tác giả [Ngô Thừa Ân – Tây Du Ký] lập ngôn bằng một Hóa Văn Luận để trả lời câu hỏi: “con người phát tâm, khởi văn tự khi nào?”.
      Ngô Thừa Ân diễn lại cái trình tự tiến hóa làm ta ngỡ ngàng:
      Nguyên lai con người làm bạn với lang trùng, kết đàn với hổ báo, thân mật với hưu nai, chan hòa với khỉ vượn…đêm ngủ vách núi, ngày chơi hang động…chim có giọng chim, thú có tiếng thú…[TDK I/10 tr. 29,35- Nhà XB Văn Học Hà Nội-1988]
      Nhưng rồi cũng đến cái ngày chẳng lẫn vào đàn chim bay, không theo vào loài thú chạy…ấy là thời…“Bếp đá còn vết lửa
           Trên án thức ăn còn nguyên cả
           Giường đá trắng bong thật tuyệt trần
           Chậu đá, bát đá đẹp vô cùng” [TDK.sd. tr.32]
      Tác giả “dừng” lại ở cái giả định ấy: cái giao thoa giữa thời đồ đá mới và thời đồ sắt mà luận cuộc hóa văn.
      Ấy là cái nhu trí thức, cái nhã văn chương…mà mãi đến đôi ba thế kỹ sau các nhà bác học Âu Châu mới cũng chỉ nói có được vậy!
      Có lẽ [nói như Ngô Thừa Ân] - “nhánh Australopitheus afagens sinh ra giống Homo xuất hiện ở Đông Phi cách đây ba triệu năm…Đây là loài ăn hoa quả, rễ cây và củ, và có lẽ biết sử dụng dụng cụ thô sơ bằng đá” [@tr.6]…”Sự sáng chế dụng cụ đầu tiên bằng đá đánh dấu giai đoạn cơ bản của quá trình tiến hóa vì nó đã đưa văn hóa vào trật tự tự nhiên…Từ khi lương tâm xuất hiện cách đây ba triệu năm, chúng ta đã đạt được nhiều hiểu biết về bản chất con người của chúng ta, về môi trường của chúng ta” [@tr.9]
      Và từ đó, con khỉ đá trở thành Mỹ hầu vương [vua các loài khỉ] mà qua phong thái lộng chương của tác giả cũng như qua nghệ thuật thứ bảy chuyển tải cho ta thấy “vẻ ngoài cũng chẳng thua ai hình hài” nên khỉ ta chỉ có thể là đống loài nhưng không đồng chủng với bầy khỉ kia, vì rồi khỉ kia vẫn hoàn cốt khỉkhỉ ta thì biết vái lạy bốn phương [TDK. sd. tr.29], biết lo sợ về nỗi vô thường [TDK.sd. tr.36]. Mà nhà cổ sinh vật học Yves Coppens có ý kiến: “Hết thảy chúng ta đều là những Homo sapiens cùng chung một nguồn gốc di truyền khiến cho chúng ta khác với các loài khỉ khác.”[@sd.tr.9]
      “Biết lo xa như thế, vậy là đạo tâm thực đã khai phá rồi đấy.” [TDK.sd.tr.36]
      Tâm khai từ lúc nào? – “Từ khi lương tâm xuất hiện cách đây khoảng ba triệu năm – đó là loài tiền nhân loại – biết sử dụng dụng cụ thô sơ bằng đá” mà Y.Coppens có thể phát họa theo cách của khoa học để chuẩn y cho phong thái lồng lộng văn chương của Ngô Thừa Ân vậy.
      Tư liệu đồ đá được đẽo gọt thành chậu, thành bát…bếp đá còn vết lửa…chưa cho phép tác giả giới thiệu cho chúng ta về một thời đồ đá mới chăng? Ta không tin là mình chưa hiểu!
      Từ khi có lửa - dùng lửa – cũng là lúc con người biết đến sắt –dùng sắt – Đó là hình tượng cây cầu sắt. Cầu là biểu tượng chuyển tiếp (văn chương mà!) được tác giả đặt liền bên nhau hai nền văn minh – hai thời kỳ: cuối thời đồ đá mới – đầu thời đồ sắt.”] (trích “Khỉ đá hóa văn luận I”)
        Hóa Văn (Esthétiser/Estheticize) chính là “con đường” (ĐẠO) mà nhân loại đã vạn lý trường chinh (tiến hóa) qua bao thế hệ…để hình thành nên cái lương tri.
        Lương tri chính là cái bản năng văn hóa của con người được gọi là nhân tính…tính người. Lương tri là cái tính người.
        Hai từ ngữ, hai định nghĩa, làm thành hai quy phạm : “nhân tính” và “thú tính”.
        Tách cái lương tri ra khỏi “con người”... “con người ấy” gọi là “ngợm”…liền bị đồng hóa với…súc vật: mầy mất nhân tính rồi hả…mày không còn lương tri nữa hả…đồ chó má, đồ trâu bò, đồ rắn độc…mày không còn là con người nữa!!! Mầy có phải là con người không hay là con vật vậy??? Loài súc sinh…đồ thú vật chứ chẳng phải người !(v.v…và…v.v.)
        Càng rời xa cái lương tri thì càng trở lui về cái đời sống cận sinh vật.
        Vậy “tu là gì?”. Phải chăng là quét dọn cho sạch cái ô nhiễm trong môi trường lương tri!
        Môi trường lương tri tức cái minh kính đài đã sáng trong thì việc nhìn trắng ra trắng…đen ra đen…thiện ra thiện…ác ra ác…trái ra trái…phải ra phải…đúng ra đúng…sai ra sai…một cách rõ ràng không khó. Đơn giản chỉ vì nó phản xạ một cách tự động hóa như một thứ bản năng, một loại tập tính thuần thục. Đây là loại phản xạ có điều kiện đã được hình thành qua hàng triệu triệu năm lập cước trên lương tri để tạo thành cái bảng giá trị luân thường đạo lý mà nhân loại…tổ tiên chúng ta đã dày công khai phá…vun bồi…tu dưỡng cho ngày nay đàn hậu duệ chúng ta đây được ân hưởng:
Bước hoang sơ đã có người
Khai sơn phá thạch vạch đường đi
Dặm trường vạn lý ai ơi
Từng bao khó nhọc, biết bao đoạn trường
Mỗi bước là một hiểm nguy
Từng bao nhiêu bước…bao người hy sinh
Hậu duệ nào nỡ vô tình
Đường kia ai vạch…ai đi mà mòn!
=======
(@). “Yves Coppens, nhà Cổ Sinh Học, là chủ nhiệm bộ môn Cổ Nhân Chủng Học và Tiền Sử Học ở Collège de France tại Paris. Ông đã lập được những mẫu hình để giải thích nguồn gốc họ Người (Homo) bắt đầu cách đây tám triệu năm và nguồn gốc Loài Người cách đây ba triệu năm và ông cũng tạo được mô hình văn hóa để giải thích quá trình tiến hóa của tư tưởng.” Trên là nguồn dẫn từ bài phỏng vấn của Michel Batisse thực hiện qua cuộc trò chuyện với Yves Coppens trên báo (Le Courrier de l’UNESCO) [NGƯỜI ĐƯA TIN UNESCO số 2 năm 1994 từ tr.6 đến tr.9 – bản Việt ngữ -] 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét