Các
Ngài nghe phong phanh Liên Hiệp Quốc đứng ra đở đầu cho Phật Giáo tổ chức Lễ
Phật Đản Sanh nên các Ngài triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để tìm phương kế “độ
chúnh sanh” hòng hoằng Pháp để xiển dương Đạo Pháp.
Cuộc
họp gồm các Phật quá khứ, hiện tại, tương lai:
- Đức
Phật Nhiêu Đăng, dức Phật A-Di-Đà, đức Phật Thích Ca, đức Phật Datlai Latma và
đức Phật Di Lặc cùng các Bồ Tát:
c Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền
Bồ Tát, Quảng Đức Bồ Tát và 16 La Hán Buông Đao.
Còn
các Bồ Tát và La Hán khác không được mời vì phòng hộp không đủ sức chứa với lại
sợ nhiều ý kiến quá sẽ làm nhiễu loạn và có nguy cơ lạc đề.
Đức
Phật Nhiêu Đăng là vị Phật tiền nhiệm của đức Thích Ca đồng thời cũng là vị Tổ
Phật đầu tiên khai mạc buổi họp:
“Thưa
các vị đồng hữu và các môn sinh, hôm nay ta triệu tập các ngươi là để chuẩn bị
đón tiếp ngày trọng đại Liên Hiệp Quốc đứng ra support cho thiện nam tín nữ của
chúng ta trên khắp cái hành tinh qủa đất này mừng chú Thích Ca Đản Sanh tròn
2.553 tuổi. Chúng ta biết chú Kitô Giêsu mới có tròn 2009 tuổi mà đã được nhân
loại mừng Giáng Sinh cũng từng ấy năm; nghĩa là đã 2009 lần rồi.
2.552 năm nay nhân loại coi thường chúng ta, nay mới được tôn vinh. Đó là niềm vinh hạnh mà Đạo Pháp của chúng ta ân hưởng.
2.552 năm nay nhân loại coi thường chúng ta, nay mới được tôn vinh. Đó là niềm vinh hạnh mà Đạo Pháp của chúng ta ân hưởng.
“Nhân
cơ hội này chúng ta phải chứng minh cho con người trên cái địa cầu này và trên
các thế giới khác hiểu, biết và giác ngộ Đạo của chúng ta diệu kỳ như thế nào.
“Muốn
làm thế, không gì bằng chúng ta phải dùng phép độ chúng sanh cho chúng rõ thế
nào là Chánh Pháp.
“Mong
các đồng hữu và các môn sinh tùy tài năng cá biệt của mình mà hóa phép mầu làm
cho chúng sanh được giải thoát càng nhanh càng tốt. Đúng không?”.
Đức
Thích Ca với vị trí kế nhiệm đức Tổ Phật nên Ngài Nhiêu Đăng cho phép phát biểu
trước:
-“Thưa
chư đồng hữu và chư môn sinh. Kình thưa đức Tổ Phật Nhiêu Đăng Tổng Tòa Sen;
nếu để cho mỗi người tùy tài, tùy duyên mà tùy tiện độ chúng sanh tôi e rất dễ
đụng hàng, sợ sinh ra tranh chấp làm cho Đạo Pháp của chúng ta trở thành manh
múm mất. Tôi cũng đã từng áp dụng phương án này rồi và bằng chứng là trên cái
trái đất này Đạo của chúng ta có quá nhiều Tông, nhiều Phái, nhiều Hệ làm cho
nhân loại điên đầu rối trí.
Đại Thừa chửi Tiểu Thừa là: “Tiểu-thừa có khuynh-hướng trốn đời, mong giải-thoát cho nhanh coi đời là bể khổ và bẩn-thỉu. (tr.438)
“Tiểu-thừa ích kỷ và tiêu cực. Nhìn đời bằng con mắt bi-quan” (tr.438).
“Tiểu-thừa chỉ là quyền-pháp để độ những người còn kém. Chính –pháp là giáo- lý Đại-thừa , chỉ cái bao-la cho chúng-sinh phát-triển.(tr.443)
“Tiểu-thừa là phương diện thấp, hẹp, nông-cạn, thô-sơ của Phật-pháp.” (tr.444).
“Tiểu-thừa mắc cái tội là làm cho chúng-sinh sau này hiểu lầm Phật-pháp, không hiểu được Chánh-pháp”(tr.445).
Thế đấy! Đúng không?
[“Phật Giáo” – Gs.Tuệ-Quang Nguyễn-Đăng-Long – Tủ Sách Phật Học xb.1964 – Thượng-Tọa Thích-Tâm-Châu giới thiệu] (1)
Đại Thừa chửi Tiểu Thừa là: “Tiểu-thừa có khuynh-hướng trốn đời, mong giải-thoát cho nhanh coi đời là bể khổ và bẩn-thỉu. (tr.438)
“Tiểu-thừa ích kỷ và tiêu cực. Nhìn đời bằng con mắt bi-quan” (tr.438).
“Tiểu-thừa chỉ là quyền-pháp để độ những người còn kém. Chính –pháp là giáo- lý Đại-thừa , chỉ cái bao-la cho chúng-sinh phát-triển.(tr.443)
“Tiểu-thừa là phương diện thấp, hẹp, nông-cạn, thô-sơ của Phật-pháp.” (tr.444).
“Tiểu-thừa mắc cái tội là làm cho chúng-sinh sau này hiểu lầm Phật-pháp, không hiểu được Chánh-pháp”(tr.445).
Thế đấy! Đúng không?
[“Phật Giáo” – Gs.Tuệ-Quang Nguyễn-Đăng-Long – Tủ Sách Phật Học xb.1964 – Thượng-Tọa Thích-Tâm-Châu giới thiệu] (1)
Đức
Di Lặc liền tiếp lời:- “Anh Hai vừa nói thật chí phải. Như vậy là do lỗi của
anh Hai. Anh Hai đã biết thế nào rồi Chánh pháp của mình cũng bị lợi dụng và
chia chẻ thành tản mạn. Há chẳng phải anh đã tiên báo rằng Chánh Pháp của mình
rồi cũng đến thời “mạt pháp” đó sao ?
Biết mà không có cách nào ngăn chặn là anh đã chưa thấu suốt 3.000 thế giới, chưa thấu lòng người. Như vậy là chưa đạt chuẩn giác ngộ.
Anh có còn nhớ, mới khi ra đi trên bước đường tìm đạo anh đã sai lầm theo pháp tu khổ hạnh, chờ đến khi anh uống được ly sữa của cô gái kia anh mới tĩnh ngộ và anh ngồi thiền mới có 49 ngày mà anh vội vả giác ngộ nóng vội ; chi cho nên anh phạm sai lầm tiếp theo là giao Chánh pháp cho Ca Diếp chỉ với bằng một cành hoa. Anh có biết Ca Diếp hiểu gì chưa mà anh lật đật trao y bát mà bảo rằng “Chánh pháp nhãn tàng”.
Đó không phải là cái lỗi của Ca Diếp. Đó là cái tội của anh.
Tuy nhiên, thưa các cao huynh đệ và các môn đồ, không phải đến đây để chúng ta đổ thừa cho ai mà như Tổ Phật Nhiêu Đăng cáo bạch là chúng ta tìm biện pháp “hóa độ chúng sanh giải thoát” nên lời thừa nhận của anh Hai Thích Ca cũng cho ta một bài học đích đáng.
Tôi đồng ý lời đề nghị của anh Hai cho tất cả chư quý vị. Còn riêng tôi, giờ tôi chưa đến. Tôi sẽ hạ hồi hóa độ siêu thoát chúng sanh trong thời kỳ sau rốt trước lúc thế mạc. Đúng không?”
Biết mà không có cách nào ngăn chặn là anh đã chưa thấu suốt 3.000 thế giới, chưa thấu lòng người. Như vậy là chưa đạt chuẩn giác ngộ.
Anh có còn nhớ, mới khi ra đi trên bước đường tìm đạo anh đã sai lầm theo pháp tu khổ hạnh, chờ đến khi anh uống được ly sữa của cô gái kia anh mới tĩnh ngộ và anh ngồi thiền mới có 49 ngày mà anh vội vả giác ngộ nóng vội ; chi cho nên anh phạm sai lầm tiếp theo là giao Chánh pháp cho Ca Diếp chỉ với bằng một cành hoa. Anh có biết Ca Diếp hiểu gì chưa mà anh lật đật trao y bát mà bảo rằng “Chánh pháp nhãn tàng”.
Đó không phải là cái lỗi của Ca Diếp. Đó là cái tội của anh.
Tuy nhiên, thưa các cao huynh đệ và các môn đồ, không phải đến đây để chúng ta đổ thừa cho ai mà như Tổ Phật Nhiêu Đăng cáo bạch là chúng ta tìm biện pháp “hóa độ chúng sanh giải thoát” nên lời thừa nhận của anh Hai Thích Ca cũng cho ta một bài học đích đáng.
Tôi đồng ý lời đề nghị của anh Hai cho tất cả chư quý vị. Còn riêng tôi, giờ tôi chưa đến. Tôi sẽ hạ hồi hóa độ siêu thoát chúng sanh trong thời kỳ sau rốt trước lúc thế mạc. Đúng không?”
Phật
A-Di-Đà phát biểu: “Tôi cũng đồng ý với chú Di Lặc. Tôi đã thông bác tất cả
mọi Kinh Thánh của các đạo thờ Thượng Đế rằng không có Kinh nào viết một lời
nào ở chương sách nào bảo năm 2000 là tận thế cả.
Tôi có nghiên cứu thêm bên khoa học, họ bảo rằng quốc độ địa cầu này còn 400 triệu năm nữa mới tan tành thành bụi bặm. Do đó, chờ cho chú Di Lặc hóa độ chúng sanh thì quá trể vì chúng sanh sẽ phải ngụp lặn trong bể khổ dai dẵng như vậy lòng tôi thấy áy náy quá; mà để cho giáo pháp của anh Thích Ca hoán giải thì nó càng sa lầy thêm vì nó cũng là loại hàng đã hết hạng sử dụng rồi như anh Hai vừa trình bày.
Tôi có nghiên cứu thêm bên khoa học, họ bảo rằng quốc độ địa cầu này còn 400 triệu năm nữa mới tan tành thành bụi bặm. Do đó, chờ cho chú Di Lặc hóa độ chúng sanh thì quá trể vì chúng sanh sẽ phải ngụp lặn trong bể khổ dai dẵng như vậy lòng tôi thấy áy náy quá; mà để cho giáo pháp của anh Thích Ca hoán giải thì nó càng sa lầy thêm vì nó cũng là loại hàng đã hết hạng sử dụng rồi như anh Hai vừa trình bày.
“Với
giáo pháp của tôi thì đơn giàn, nhẹ nhàng, đễ hiểu, dễ hành cho nên giải thoát là “chuyện nhỏ”. Chỉ cần một cái tràng hạt và kêu danh hiệu tôi “Nam Mô A-Di-Đà
Phật” và niệm một trong 48 lời nguyền của tôi là giải thoát tức thì, không cần
tu chứng hay thiền thiết gì cả. Đúng không?”
Đức
Phật Datlai Lama hậu sinh khả úy đưa ra nhận định: “Trước hết tôi xin phép Bà Quan Âm Bồ tát cho tôi được có đôi lời riêng của tôi chứ không dám mạo mụi
nhân danh là “sinh vô tính của Bà”.
Sự phân ra thành nhiều giáo pháp không phải là chia chẻ mà chỉ là tùy duyên. Có tục ngữ nói rằng “bá nhân bá tánh”; vì thế mà từng mỗi tông phái ra đời là để đáp ứng cái duyên của từng người cũng như cần đến 84.000 pháp môn cho thích hợp vào mỗi nghiệp quả của mỗi sinh linh. Đó không phải là manh múm vụn vặt mà là những con đường thích hợp cho từng cá thể cảm ứng được sự tương thích.
Pháp là Chánh Đạo nhưng không chấp vào tri kiến nhãn tàng cố hữu mà biến theo thực hữu ta bà lung linh ảo hóa thì Pháp mới thăng hoa và hiệu quả. Do đó, Pháp nào không hiệu quả không là Chánh pháp!
Vấn đê hôm nay ở đây, như mục đích yêu cầu của Tổ Phật Nhiêu Đăng là chúng ta tìm ra một phương án giải thoát hiệu quả nhất để kịp cho Liên Hiệp Quốc xác nhận Đạo của chúng ta là “ Đạo Tốt Đẹp Nhất Thế Giới” để Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ghi vào sổ đầu bài là “Quốc Độ Phật Toàn Cầu Giáo”. Đúng không?
Sự phân ra thành nhiều giáo pháp không phải là chia chẻ mà chỉ là tùy duyên. Có tục ngữ nói rằng “bá nhân bá tánh”; vì thế mà từng mỗi tông phái ra đời là để đáp ứng cái duyên của từng người cũng như cần đến 84.000 pháp môn cho thích hợp vào mỗi nghiệp quả của mỗi sinh linh. Đó không phải là manh múm vụn vặt mà là những con đường thích hợp cho từng cá thể cảm ứng được sự tương thích.
Pháp là Chánh Đạo nhưng không chấp vào tri kiến nhãn tàng cố hữu mà biến theo thực hữu ta bà lung linh ảo hóa thì Pháp mới thăng hoa và hiệu quả. Do đó, Pháp nào không hiệu quả không là Chánh pháp!
Vấn đê hôm nay ở đây, như mục đích yêu cầu của Tổ Phật Nhiêu Đăng là chúng ta tìm ra một phương án giải thoát hiệu quả nhất để kịp cho Liên Hiệp Quốc xác nhận Đạo của chúng ta là “ Đạo Tốt Đẹp Nhất Thế Giới” để Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ghi vào sổ đầu bài là “Quốc Độ Phật Toàn Cầu Giáo”. Đúng không?
Bồ
Tát Quảng Đức lên tiếng: - “Vì năm nay LHQ tổ chức lễ Phật Đản trên đất nước
tôi cho nên tôi cũng có vài kinh nghiệm bản thân nho nhỏ để góp vào Hội Nghị.
Tôi vì đấu tranh cho Chánh pháp mà được giải thoát. Vậy thì giải thoát đâu có
gì khó. Các tín đồ của tôn giáo khác cũng đã bắt chước tôi ôm bôm đi giải thoát
đó. Đúng không?”
Bà
Quán Thế Âm Bồ Tát cắt ngang lời của Bố Tát Quảng Đức: - “Nếu ai cũng làm
như Ngài, nếu ai cũng chỉ lâm râm kêu tên “Nam-Mô A-Di-Đà Phật” thì được giải
thoát, thì tôi còn việc gì để làm nữa. Đúng không?”
Đức
Địa Tạng Vương Bồ Tát (*) tiếp lời Bà Quan Âm: -“Bà ở đâu ra thế? Đức Phật
Datlai Lama là sinh vô tính của Bà, thế bà cũng là sinh vô tính của
tôi sao? Datlai Lama dầu sinh vô tính chăng nữa nhưng đâu có chuyển giới tính,
sao bà không giữ giới tính của tôi mà đâm ra lại cái vậy? Chuyện “cứu nạn
cứu khổ” là trách nhiệm của tôi đã được đăng ký bản quyền với đức Thích Ca
Như Lai đây từ khuya rồi. Đúng không?
“Đây,
tôi xin trình ra cho cả Hội Nghị xét cho:
“Duyên
Mệnh Tạng Bồ Tát từ đất xuất hiện, gối bên
hữu quỳ thẳng, cánh tay ngang vai, gối bên tả ở dưới chân, tay cầm tích trượng,
bạch Phật rằng: Con mỗi sáng sớm, nhập thiền định, vào các địa ngục, khiến cho
chúng sanh thoát ly khỏi khổ nạn.
“Đời
này và đời sau thế giới nào không có Phật, con cũng có thể dắt dẫn, chỉ đường
và tế độ chúng sanh.
“Sau
khi Phật diệt độ, nam nữ nào muốn được con ban phước, không cần xem ngày xấu
tốt, không luận sạch nhơ, chỉ cần hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, lời
nói sắc mặt hòa nhã, không oan uổng ai, không giết hại sinh mệnh, không phạm tà
dâm.
“Con
từ bao nhiêu kiếp tới nay, thấy tất cả chúng sanh trong 6 đường, đồng một thể
pháp tánh, không trước không sau, không sai không khác, bởi nghiệp vô minh mà
thấy các tướng khác nhau, sanh, trụ, di, diệt, nào được nào mất, khởi niệm bất
thiện, tạo mọi nghiệp ác, vòng quanh lục thú, kiếp kiếp làm cha mẹ lẫn nhau,
đời đời làm anh em lẫn nhau. Tất cả đều sẽ thành Phật rồi con mới thành Phật.
Nếu còn sót một người chưa diệt độ con thề chưa thành Phật.
Nếu còn sót một người chưa diệt độ con thề chưa thành Phật.
“Chúng
sanh nào biết được nguyện con, đời này và đời sau chỗ sở cầu không được thỏa
mãn thì con thề không thành chánh giác.
“Phật
khen Duyên Mệnh Tạng Bồ tát: “Hay lắm, hay lắm chân thiện nam tử (*)!
Sau, khi ta diệt độ rồi, đời ác sau này, tội khổ chúng sanh, ta phó thác cho ông (*). Đời này đời sau ông (*) dắt dẫn khéo léo chớ để họ sa vào ác thú bằng gẩy móng tay huống chi đọa A-tỳ vô-gián địa ngục”
Sau, khi ta diệt độ rồi, đời ác sau này, tội khổ chúng sanh, ta phó thác cho ông (*). Đời này đời sau ông (*) dắt dẫn khéo léo chớ để họ sa vào ác thú bằng gẩy móng tay huống chi đọa A-tỳ vô-gián địa ngục”
“Duyên
Mệnh Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, xin chớ lo. Con sẽ cứu vớt
chúng sanh trong 6 đường. Nếu ai khổ quá con xin chịu thay, không được
như vậy con thề không thành chính giác”
[“Kinh Duyên Mạng Địa Tạng Bồ tát” - tr. 20-21-22-23 – Phật tử Mỹ Dung ấn tống – Phật lịch 2509 -1965]
[“Kinh Duyên Mạng Địa Tạng Bồ tát” - tr. 20-21-22-23 – Phật tử Mỹ Dung ấn tống – Phật lịch 2509 -1965]
“Kính
thưa các Cao Tổ Phật và chư tôn giả; có mặt đức Phật Thích Ca đây và hôm đó có
cả Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và cả Phổ Hiền Bồ tát làm chứng cho con; con xin thề
độc; nếu con đêu ngoa lời nào, hộc máu chết liền và đi thẳng xuống A-tỳ ngay
bây giờ. Đúng không?”
Đức
Thích Ca và Văn Thù và Phổ Hiền bồ tát đều xác nhận cho ông.
Và
Ngài Nhiêu Đăng hỏi bà Quan Âm: “Bà từ đâu tới ?”
Quan
Âm: “Dạ, con từ Trung quốc đến ạ.”
-“Vẫy
bà thuộc phái nào ?”
-“Con
thuộc phái Đại Thừa ạ.”
-“Bà
hãy thường thuật lại cho Hội chúng nghe bà nhấp nháy ra làm sao mà thành ra “thế
này đây”.
-“Dạ,
xing vâng! Nhưng lời con nói về con không đáng thuyết phục. Con nhờ chú Lục
Tiểu Linh Đồng Tôn Ngộ Không làm sáng tỏ vấn đề ạ. Đúng không?”
Đức Như Lai Thích Ca liền
vời Tôn Ngộ Không Linh Đồng đến và nhắc nhở
hôm nay chớ có quậy phá thiên cung như năm nào kẻo bị tội chẳng những 500 năm mà là 5.000 năm nữa đấy. Và Lục Tiểu Linh Đồng tuân lệnh đọc bản cáo trạng biên
khảo:
“Ban
đầu Quan Âm Bồ Tát được gọi là Quan Thế Âm, nghĩa là người luôn lắng nghe tiếng
nói của thế nhân. Trong truyền thuyết, khi gặp hoàn cảnh khó khăn, chỉ cần
miệng thầm niệm tên Quan Thế Âm, Quan Âm Bồ Tát sẽ nghe được tiếng kêu và đến
giải cứu. Thời đại nhà Đường, nhân dân tránh tên húy của Đường Thái Tổ Lý Thế Dân
nên bỏ mất chữ “Thế”, đổi thành Quan Âm. Sau đó lưu truyền đến ngày nay, người
đời đều gọi là Quan Âm Bồ Tát. Do Quan Âm Bồ Tát đảm nhiệm trọng trách cứu khổ
cứu nạn, thêm vẻ ngoài đoan trang xinh đẹp, được dân gian yêu mến và cung kính.
Cho đến tận bây giờ, trong nhà rất nhiều người thờ phụng bài vị Quan Âm Bồ tát.
Đó chính là tượng Quan Âm với vẻ mặt từ bi tọa Thiền tại “Tứ Trúc Lâm”.
“Khi
cùng Phật du nhập vào Trung quốc, hình tượng và giới tính (*) Quan Âm Bồ Tát có
nhiều thay đổi lớn. Tuy Quan Âm Bồ tát bị Trung quốc hóa, nhưng tấm lòng đại từ
đại bi cùng nhiệm vụ giải cứu chúng sinh không hề thay đổi. Chúng ta xem xem
tại sao Quan Âm Bồ Tát ở Trung quốc là nữ.
Vào thời kỳ Lưỡng Hán, Phật giáo du nhập vào Trung quốc, Quan Thế Âm xuất hiện với hình tượng của nam giới (*). Bức tranh tượng Quan Âm trong Thiên Phật tại Đôn Hoàng là tượng nam giới. Dưới ảnh hưởng ý thức thẩm mỹ trung quốc, Quan Âm Bồ Tát bắt đầu được thêm thắt những nét mang đậm bản sắc Trung quốc. Thời kỳ Nam Bắc Triều, hình vẽ Quan Âm Bồ Tát với thân hình nam giới, dung mạo nữ giới dần dần xuất hiện trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc. Thời nhà Đường, Quan Âm mang hình dạng nữ giới đã chiếm vị trí chủ đạo.”
Vào thời kỳ Lưỡng Hán, Phật giáo du nhập vào Trung quốc, Quan Thế Âm xuất hiện với hình tượng của nam giới (*). Bức tranh tượng Quan Âm trong Thiên Phật tại Đôn Hoàng là tượng nam giới. Dưới ảnh hưởng ý thức thẩm mỹ trung quốc, Quan Âm Bồ Tát bắt đầu được thêm thắt những nét mang đậm bản sắc Trung quốc. Thời kỳ Nam Bắc Triều, hình vẽ Quan Âm Bồ Tát với thân hình nam giới, dung mạo nữ giới dần dần xuất hiện trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc. Thời nhà Đường, Quan Âm mang hình dạng nữ giới đã chiếm vị trí chủ đạo.”
“Quan
Âm Bồ tát từ nam biến thành nữ (*), một phần là do nữ giới có trái tim đồng
cảm, dịu dàng, hiền hậu hơn nam giới. Quan Âm Bồ Tát là nữ thì phù hợp với đặc
điểm Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khô cứu nạn hơn. Ngoài ra, trong đệ tử
nhà Phật có không ít ni cô, nữ giới theo đạo Phật cũng không ít. Nếu như
không có nữ Bồ Tát, nữ tín đồ khó nuôi dưỡng mong muốn thành Phật. Điều này
dễ gây tổn thương tính tích cực và lòng hướng đạo của tăng ni Phật tử. Có
khi không có người nhang khói, Phật môn lạnh lẽo, mọi người sẽ thấy ngay cả
Phật giáo cũng vô dụng. Có nữ Quan Âm Bồ tát, hiển nhiên là niềm an ủi và cổ vũ
lớn lao cho tất cả tín đồ nữ. Có nhiều chuyện không tiện nói trước mặt nam giới
nhưng lại có thể thổ lộ hết với Quan Âm Bồ tát. Với những nguyên nhân kể trên,
sự ra đời của nữ Bồ Tát, trở thành một sự kiện lớn trong hoạt động Phật giáo.
Sự xuất hiện của nữ Bồ Tát bù đắp những thiếu sót đáng tiếc của nam Bồ Tát. Như
vậy, một Quan Âm Bồ Tát mang dáng dấp của phụ nữ với phong thái thướt tha, hiền
hậu ắt hẳn sẽ được nữ giới tôn kính, xem như bậc tri kỷ; nam giới cũng tôn
trọng bà, hy vọng được bà ban phúc.”
“Quan
Âm Bồ Tát mang dáng dấp phụ nữ cũng thể hiện tiềm ý thức lưu luyến tình mẹ của
dân tộc Hoa Hạ. Con cháu Diêm Hoàng vốn từ chế độ mẫu hệ chuyển sang chế độ phụ
hệ, luôn khao khát và lưu luyến tình mẹ.”
-“Lục
Tiểu Linh Đồng xin trình Hội Nghị.”
[tác
giả Lục Tiểu Linh Đồng (người đóng vai Tôn Ngộ Không trong Tây
Du Ký) – “Lục Tiểu Linh Đồng bình TÂY DU ” [tập 1] –
tr.124-125-126 – Nhà XB Thời Đại.2010 -]
Chủ
tọa Cổ Phật Nhiêu Đăng kết thúc Hội Nghị:
-“Thì
giờ gấp gáp lắm rồi để trình lên UNESCO xin LHQ công nhận Đạo chúng ta là “Tôn
giáo tốt nhất toàn cầu” nên các phương án giải thoát của các tôn giả tỏ ra
kém hiệu quả như 84.000 pháp môn, tu chứng qua nhiều kiếp, ngồi thiền lâu lắc
lâu lơ, hoặc nhờ ông bà bà ông Địa Tạng Quan Âm cứu nạn cứu khổ như thể phủi
bụi. Tôi nhân danh chưởng môn Phật Đạo, chọn giải pháp giải thoát ngắn gọn, tức
thì, nhanh nhất của ông A-Di-Đà làm Chánh Pháp. Đúng không?”
Mười
Sáu vị La Hán rần rần ủng hộ: - “Chúng tôi nhất trí với Tổ Phật. Theo
kinh nghiệm của chúng tôi thì chỉ cần “buông đao” là đạt Chánh Quả nên nhân
loại chỉ cần niệm “Nam Mô A-Di-Đà Phật” kèm với một lời nguyện trong “48 Lời
Nguyền” của A-Di-Đà là tiện và lợn nhất. Đúng không?”
-“Không
đúng! Không đúng! Không đúng! Bà Quan Âm, ông
Địa Tạng, Ngài Quảng Đức, Văn Thù, Phổ Hiền bồ tát, đức Datlai Lama, đức Di
Lặc, đức Thích Ca nhao nhao phản đối.
Thì
bổng dưng hoa sen trên trời rơi xuống tràn ngập hội nghị, hương thơm tỏa ra
ngan ngát, nhạc cung đình vang vọng lâng lâng và một tiếng vọng uy nghiêm vang
lên: “Chúa đã bỏ loài người. Phật không bỏ loài người. Hãy niệm cầu
“Nam Mô D-Di-Đà Phật” là nhất cú ta đã trao cho A-Di-Đà từ vạn thuở và kết luận
của Nhiêu Đăng là chung kết.
Hết!”
Hết!”
=========
Chú
thích:
(1)“Đây
là một thành công về nghệ thuật. Về phương diện văn chưong, ta phải khen tác
giả đã khéo trình bày tư tưởng cao siêu, tế nhị, rất khó diễn tả thành một hệ
thống rõ ràng, có phương pháp. Lời văn linh động, thiết tha, sáng sủa, khi hùng
tráng, khi nhẹ nhàng, khi sâu sắc, khi cao siêu. Và rất lưu loát. Tác phẩm này
không những nói lên những điều cần biết về Đạo Phật, lại kết tinh được tư tưởng
nhân loại, gồm Đông-Tây, Kim-cổ. Đáng quý là tỏ rõ một cách linh động tinh thần
hùng tráng, cao siêu của Phật pháp.
“Ta
phải khen tác giả là một học giả, không những uyên thâm Phật học, mà cả về văn
hóa, về khoa học, nghệ thuật cũng rất uyên bác. Có như thế mới trình bày được
một cách tự nhiên, lưu loát, dễ dàng cả một hệ thống tư tưởng rất trừu tượng,
tinh vi, thường bị chết trong rừng danh từ bí hiểm. Ta thấy tác giả là một nghệ
sĩ, rung cảm trước muôn vẻ đẹp, và làm rung cảm lòng ta trước những vẻ đẹp
tuyệt vời.
“Một
tác phẩm như vậy làm hãnh diện đạo Phật. Nó sẽ giúp bao trí thức, Phật tử hiểu
đạo, có một ý niệm rõ ràng và sâu sắc về đạo. Nó đã tả đúng chân-tinh-thần Phật
giáo. Nó là nguồn cảm hứng cho người thiết tha tìm hiểu Chính pháp, cho người
thực hành tu theo Chân lý.
“Phạt
giáo” sẽ độ vô số chúng sinh thành Chính giác. Sẽ tràn lan khắp nước Việt
Nam. Sẽ tràn lan khắp thế giới, mang cho nhân loại bao “nguồn sáng mới”.
Vì “Phật giáo” là Chính pháp.
[“Lời
Giới Thiệu” – Thích Tâm Châu – Saigon, ngày 1-4-1964-Phật lịch 2507- sách dẫn
trên]
==========
Bài
này là để trả lời bài “Cuộc Họp của Các Thượng đế về Năm 2000” của Tiến
sĩ Phật học Thích Nhật Từ đăng trên <vnthuquan.net>. Mời các bạn
vào đó tìm <tác giả>“Thích Nhật Từ” hoặc <tựa bài> “Cuộc
Họp của Các Thượng đế về Năm 2000” sẽ ra.
00000OOO00000
Thích
Nhật Từ
“Cuộc
Họp của Các Thượng đế về Năm 2000”
Vào
những tháng cuối năm 1999, các vị Thượng đế của các tôn giáo lớn trên thế giới
gặp gỡ nhau để tổ chức cuộc họp về năm 2000. Buổi họp đến, các Thượng đế cấp
quốc tế, chẳng hạn như, của Ấn Độ, của Trung Quốc, của Do thái, của thành
Gia-du-xa-lem và của khối Trung Đông đều có mặt. Ngoài ra, còn có các Thượng đế
cấp quốc gia và địa phương đều đến đông đủ. Nhưng bất hạnh thay, các Thượng đế
cấp nhỏ này không được dự họp, vì đẳng cấp xã hội thấp kém của mình. Họ phải
đứng ngoài phòng họp để chờ kết quả. Chủ tọa của cuộc họp cấp cao về năm 2000
là Thượng đế của Ấn Độ, vị Thượng đế có tuổi lớn nhất. Thư ký của cuộc họp là
Thượng đế của Trung Quốc.
--
"Kính thưa quý Thượng đế đồng nghiệp!" Thượng đế của Ấn Độ khai mạc
cuộc họp, "Chỉ còn vài tháng nữa, năm 1999 sẽ trôi qua và năm 2000 sẽ đến,
cái năm mà kinh thánh của một số Thượng đế ghi rằng sẽ tận thế. Quý Thượng đế
đồng nghiệp có ý kiến gì về cái ngày này và có biện pháp gì để biến nó thành
hiện thực," Thượng đế chủ tọa trân trọng ngỏ lời."
--
"Đó là ngày phán xét cuối cùng," Thượng đế khối Trung Đông vội vã
nói.
--
"Đây là điều kinh thánh của tôi nói trước, ai mà không biết!" Thượng
đế Do Thái cắt ngang. "Vấn đề trọng tâm, như Thượng đế chủ tọa nói, là làm
thế nào để biến nó thành hiện thực," Thượng đế Do Thái nói thêm.
--
"Đây là công việc mà tôi đã lưu tâm hơn 50 năm nay, kể từ Ấn Độ thoát khỏi
ách thống trị của Anh và chia Pakistan thành một nước độc lập trên bản đồ thế
giới," Thượng đế Trung Đông phân trần. "Khi Pakistan hiện hữu như một
nước độc lập, tôi đã không ngừng kích động thiên hạ của tôi ở nước này gây
chiến với Ấn Độ." Thượng đế này kể chi tiết, "Từ một trận Saichen đẩm
máu vào năm 1960 cho đến cuộc chiến Kargil vào tháng 6 năm 1999 vừa qua, tôi
gần thành công trong việc kích hai nước này sử dụng bom hạt nhân để tiêu hủy
nhau. Nhưng nỗ lực này đã thất bại, do Pakistan không được sự ủng hộ của Mỹ và
khối G-8 và Ấn Độ lại bận rộn trong cuộc bầu cử." "Tôi đành bất
lực!" Thượng đế này than vãn.
--
"Nỗ lực đó có chi đâu mà nói!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem so sánh.
"Chắc qúi vị vẫn còn nhớ thế chiến thứ hai, tôi đã hỗ trợ đắc lực cho con
chiên của tôi ở Đức và Ý, và ngoài ra, tôi còn phối hợp nhịp nhàng với Thượng
đế xứ Thần Đạo, gây chiến tranh đẩm máu trên toàn cầu." Nhưng rồi chuyện
không đi đến đâu," Thượng đế thành Gia-du-xa-lem nuối tiếc, "Mỹ chỉ
dội hạt nhân vào xứ Thần Đạo, rồi ba cường quốc này bị quân đội đồng minh đánh
bại tan tành!"
--
"Bại là phải!" Thượng đế Trung Quốc nói, "thời điểm đó đã đến
năm 2000 đâu mà nỗ lực hết mình!" Thượng đế này trách nhẹ. "Kinh
thánh của tôi không hề nói đến chuyện tận thế, do đó, tôi không muốn tham gia
bàn kế sách biến nó thành hiện thực," Thượng đế Trung Quốc lánh né vấn đề
một cách không ngoan.
--
"Chúng ta phải bắt mồi từ xa chứ!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem biện
hộ. "Gần đây," ông kể, "Tôi muốn làm lớn chuyện ở Kosovo. Mỹ
nhún tay tiếp và rồi như quý đồng nghiệp thấy, tôi đã không thành công!"
Thượng đế này dẫn chứng thêm, "Và một lần vào mấy năm trước, tôi đã kích
Iraq đánh chiếm Cô-quét và thả bơm hạt nhân vào nước này, nhưng Mỹ lại can
thiệp và phá đám. Các khoa học gia nước này đã phá hủy các bom hạt nhân của
Iraq trên không trung và đã cấm vận nước này làm cho khối Hồi giáo không dám
ủng hộ Iraq." Thượng đế này kết luận một cách chán chường, "Cũng lại
Mỹ chọt gậy bánh xe nữa!"
--
"Đáng đời lắm!" Thượng đế khối Trung Đông cười chọc tức. "Nếu
anh cầu viện tôi lúc đó thì mọi việc đã xong rồi." Ông buông nhẹ thêm một
câu, "Trung Đông là xứ sở cai trị của tôi chứ đâu phải của ông!"
--
"Sao quý vị lại cãi vã với nhau!" Thượng đế chủ tọa can. "Chúng
ta họp là để bàn giải pháp chứ đâu phải để giành công và cãi lộn," Thượng
đế chủ tọa không quên nhắc nhở.
--
"Dễ thôi," Thượng đế thành Gia-du-xa-lem nói. "Quý Thượng đế
đồng nghiệp hãy cố gắng xúi giục thiên hạ của mình gây chiến với nhau và cuộc
gây chiến này sẽ dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba. Lúc đó, thì quả địa cầu
này chỉ còn là mãnh vụn của bụi mù pha với màu máu!" Thượng đế này nói một
cách tự tin và tâm đắc.
--
"Nhưng thời gian còn quá ít làm sao chúng ta có thể thành công?"
Thượng đế Do Thái chất vấn. "Hiện nay, hội đồng bảo an liên hiệp quốc có
đến ba nhóm. Ba nhóm đều phá kế hoạch và quyết định của nhau. Nhóm này đồng ý
thì nhóm kia chống kịch liệt. Làm sao lấy được biểu quyết của đa số?"
Thượng đế này phân trần nỗi khó khăn.
--
"Đúng, đúng!" Các Thượng đế đồng nghiệp đều chắc lưỡi và gật đầu suy
nghĩ. "Làm sao bây giờ?" Một vị Thượng đế chợt lên tiếng.
--
"Không sao, tôi đã có cách!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem vui vẻ nói.
"Chủ chăn của tôi dưới thế có đến hàng ngàn tiến sĩ giỏi, làm việc dưới
trướng. Tôi sẽ bảo vị chủ chăn ra lệnh các vị tiến sĩ này tạo nên môn
"giải thích học" để lý giải sự cố tận thế năm 2000, theo cách thức lý
giải sự cố Y2K của máy vi tính vậy."
--
"Nghĩa là làm sao, chúng tôi không hiểu!" các Thượng đế khác ngạc
nhiên hỏi.
--
"Nghĩa là giải thích chữ "tận thế" theo nghĩa biểu tượng triết
lý, chứ không theo nghĩa đen của từ: thế là đời, tận là chấm dứt, là bị hủy
diệt hết," vị Thượng đế thành Gia-du-xa-lem giải thích cặn kẽ.
--
"Có lý đấy!" Thượng đế chủ tọa nói. "Tôi được mệnh danh là đấng
đã tạo dựng nên thế giới, đấng duy trì thế giới và đấng hủy diệt thế giới. Nếu
ta không muốn hủy diệt thì thế giới vẫn còn nằm trong sự bao bọc và duy trì của
ta. Sự cố năm 2000 cũng vậy," Thượng đế chủ tọa tâm đắc vô cùng.
--
"Như vậy tất cả món hời của cuộc giải mã ý nghĩa "Tận thế" thuộc
về món hời của ông sao!" các vị Thượng đế đồng thanh lên tiếng.
Chuyện
bàn cãi không đi đến đâu, bổng văng vẳng từ ngoài vọng vào là tiếng của một vị
Thượng đế địa phương:
--
"Kế hoạch non như vậy làm sao thành công được." Ông đắc chí nói tiếp
với một giọng khêu khích và chọc tức, "Có gì đâu, nếu kế hoạch tận thế
không xong, thì các anh phải tự sát trước chứ!"
--
"Bắt anh ấy lại!" Thượng đế chủ tọa và thư ký ra lệnh.
Các
Thượng đế xúm chạy ra khỏi phòng họp, nhào tới vị Thượng đế địa phương nhỏ bé,
chụp lấy ông rồi đánh túi bụi. Trong cơn đau đớn, vị Thượng đế này đã bấm nút
"mìn tự sát" trong người ông. Một tiếng nổ khốc liệt vang lên, rung
chuyển cả địa cầu. Các vị Thượng đế dự họp trong phòng chết tan xác. Các Thượng
đế địa phương không được dự họp, một số cũng bị chết, số còn lại chạy trốn để
khỏi bị truy án can hệ.
Rồi
năm 2000 trôi qua trong bình yên!
Sự
kiện tận thế đã chấm dứt!
Nguồn: Buddhismtoday
Được bạn: TSAH đưa lên
vào
ngày: 17 tháng 7 năm 2004
<Trên
vnthuquan.net>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét