Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Máy xưng tội tự động

    
  [Nguồn lấy từ L'EXPRESS - Semaine du 15 au 21 Decembre 1994]

Khoa học viễn tưởng không phải là một mô hình viễn vông để giải trí mà là một cách dự báo cho thành tựu khoa học trong tương lai mà nền tảng đã từng được xây dựng từ trước và cả trong thời hiện đại đó. Junes Verne xứng đáng là một nhà văn khoa học viễn tưởng điển hình.
Trong tôn giáo cũng không thiếu những tiên tri ấy. Đức GH. Jean-Paul II cũng đồng ý với văn hào André Malraux: "Chắc chắn André Malraux đã có lý khi ông bảo rằng thế kỷ 21 sẽ mang tính tôn giáo hoặc là nó sẽ chẳng hiện hữu nữa."

["ENTREZ DANS L'ESPÉRANCE = Bước vào hy vọng"-tr.224-Nhóm Tin Yêu dịch].

Và khoa học cũng không chậm trể tiên liệu trong tương lai sẽ bị khủng khoảng tình trạng khan hiếm linh mục và tội ác lạm phát nên ở Mỹ họ đã chế ra cái "Máy Xưng Tội Tự Động" - (Automatic Cofession Machine) -1994-

Chắc chắn trong tương lai loại máy này sẽ được đặt chốn đông người như ở các góc chợ, nơi thương xá, bến xe, ga xe lửa…máy bay và trên các xa lộ hoặc nơi các giao lộ đông đúc dân cư để tiện bề phục vụ!

Hẳn rằng, xưng tội thì phải được giải tội! Cũng xin một chút tưởng tượng:

-Nếu trực tiếp muốn được nghe lời tha tội thì chỉ phải bỏ vào một vài đô.

-Nhưng nếu chưa nhận được lời tha tội: "Con về bằng an!" thì bỏ thêm 5/10 đô nữa. Vẫn chưa nghe được sự tha tội, mà nghe: "Con phải làm việc đền tội....." thì bỏ thêm một vài trăm đô nữa! Kỳ cho đến khi nghe: "Tội con đã được tha. Con về bằng an!", mới thanh thản…thảnh thơi an tâm ra về!

Khi sử dụng đến máy thì người ta đã tính đến sự công bằng như máy đếm tiền, máy kiểm phiếu trong các cuộc bầu cử...chứ không thể tin vào cảm tính của con người, nhất là người giải tội. Đó cũng là một lý do phải dùng đến máy trong thời đại máy móc này!
Hy vọng cuộc thử nghiệm này sớm được áp dụng!Top of Form

Bottom of Form
THẢO LUẬN:
Rốt cuộc thì cá nhân hay tổ chức nào phù hợp nhứt cho vai trò kinh doanh Máy xưng tội? Nhà thờ thì không được vì từ căn gốc, tôn giáo là sinh hoạt do con người bày ra cho con người, từ giáo chủ tuyên bố đạo ra đời, giáo sĩ chăn dắt tín đồ, thậm chí chánh án tòa án thần quyền xét xử người phản đạo hay dị giáo, linh mục rửa tội cho người hấp hối...,đều là con người, CB-CNV thuộc biên chế giáo hội cả, chứ không phải là những cái máy phát thanh hay những robot biết nói việc đạo, trong đó có việc nghe xưng tội.
Saturday March 8, 2008 - 05:19pm (ICT)

*Hồi đáp:
@Lenh Ho>> Bạn nói..."đều là con người", nhưng trong Kitôgiáo <con người có bí tích khác với con người CB-CNV thuộc biên chế giáo hội>

Cái máy chỉ là một cái cớ của người làm ra máy thôi chứ không phải là một sản phẩm để sử dụng. Như câu chuyện ngụ ngôn, nhân vật chỉ là cái cớ thôi chứ không phải là chính nhân vật đó. Cái chính là nhân vật đó nói lên cái gì!
Theo tôi, máy xưng tội này là câu chuyện ngụ ngôn hậu hiện đại đấy.
Và…một nhát thiền ấy chăng…một khi Phương tây chơi thiền!

@Lenh Ho…”…mặc cho thân phận bất tòan, hữu hạn và phi lý (triết Hiện sinh) của mình, đã sáng tạo ra đủ thứ đồ tốt/xấu, trong đó có máy xưng tội. Mình đã thử cố gắng trả lời như thế cho câu hỏi căn bản "Tại sao con người cùng lúc mà có cả hai bản chất đối nghịch tốt/xấu, thần tính/thú tính, hướng thiện/ dâm dục...?"

Hồi đáp:
@LENH HO >> Theo Kitôgiáo: Thiện là do Thiên chúa, Ác là do Quỷ (và kể cả do con người). Với Nho Á đông, người này thì bảo "Nhân chi sơ tính bản thiện" - người nọ thì cho là "Nhân chi sơ tính bản ác" - người khác lại không thấy cái "bản" mà chỉ thấy "Nhân chi sơ tính phi thiện, phi ác". Còn Phật giáo mình chưa biết nguồn gốc của thiện và ác do từ đâu! [nghiệp chăng?]

Và ai nói thì cứ nói, ai tin thì cứ tin, ai không tin thì cứ không tin.

Còn "tại sao" hoặc "do đâu" mà có thiện/ác - tốt/xấu? mình cũng có suy nghĩ riêng: nói như Ngô Thừa Ân, con người lúc "còn làm bạn với lang trùng, vui cùng hưu nai, chan hòa với khỉ vượn..." rồi đến cái ngày "không lẫn vào đàn chim bay, không theo vào loài thú chạy!"...và đến lúc "đạo tâm đã phát rồi đấy!"; đó là lúc: "trong hang đá có chậu đá, bếp đá, giường đá...và bếp lửa...và trên áng thức ăn còn nguyên cả...bên cơ nghiệp ấy là cái cầu sắt"!!! Mà Yves Coppens có ý kiến:"nhánh Australopitheus afagens sinh ra giống Homo xuất hiện ở Đông phi cách đây ba triệu năm...Đây là loài ăn hoa quả, rễ cây và củ, và có lẽ biết sử dụng dụng cụ thô sơ bằng đá....Sự sáng chế dụng cụ đầu tiên bằng đá đánh dấu giai đoạn cơ bản của quá trình tiến hóa vì nó đã đưa văn hóa vào trật tự tự nhiên...Từ khi LƯƠNG TÂM XUẤT HIỆN cách đây khoảng ba triệu năm, chúng ta đã đạt được nhiều hiểu biết về bản chất con người của chúng ta, về môi trường của chúng ta"[Người đưa tin UNESCO sồ-1994]

"Đạo tâm đã phát" hay "Lương tâm xuất hiện", nói như Vương Dương Minh:"Lương tri là cái phân biệt thiện ác", và dụ ngôn Trái Cấm [Cựu Ước] là “trái phân biệt thiện-ác”. Mình nghĩ nguồn gốc của thiện và ác là do cuộc hóa văn (esthétisation - estheticization) mà con người tự lập ra cho mình cái bảng giá trị ấy! Từ khi nào? - Sớm nhất là thời đồ đá cũ và muộn nhất là cuối thời đồ đá mới/đầu thời đồ sắt [N.T.Ân] mà với Coppens thì "cách đây khoảng ba triệu năm"
Chắc chắnn máy này không làm các linh mục thất nghiệp đâu vì chỉ là máy bình ổn TÂM LÝ cho người có tội vì nó thiếu chiều kích bí tích.
Friday March 7, 2008 - 10:51am (ICT)

 Hồi đáp:
@vinhan...>> Chắc chắn người làm ra máy này họ không tính đến chuyện thất nghiệp mà tính đến chuyện bính ổn tâm lý thôi. Cũng như những tôn giáo thờ ngẫu tượng họ đâu có nghĩ rằng họ đang quì lạy và xin ơn trước một phiến đá, một bức tượng gỗ hay thạch cao, mà họ đang chìm đắm vào với vị thần linh của họ đấy chứ. Nhưng cái ý đồ của người làm ra máy này còn muốn đặt ra câu hỏi:"Sự hiện diện cùa người giải tội có cần thiết không?" Bên Tin Lành trả lời là không! Vì "bí tích linh mục" và "bí tích giải tội"; cả hai bí tích này phái Calvin và cả phái Luther đều không công nhận; vì "họ không thừa nhận kẻ trung gian giữa chúa và tín đồ" [Lịch sử thế giới III-tr.62-Nguyễn Hiến Lê]
Đó là tôn giáo đấy! Ai nói gì thì cứ nói: ai tin thì cứ tin, ai không tin thì cứ không tin!
Sẵn  đây xin kể một câu truyện:
*****Có hai anh chị yêu nhau, nhưng bị cả hai gia đình ngăn cấm. Túng thế thì tùng quyền (quyền yêu nhau!), họ dẫn nhau đi đến một phương trời mới. Họ sống hạnh phúc với nhau một thời gian - số họ bị chơi xấu - nên thời gian quá ngắn. Một hôm họ chở nhau đi picnic để kỹ niệm một năm yêu nhau; nhưng cuộc chơi xấu đến: họ bị accident và cùng dắt tay nhau lên Thiên đàng. Gặp thánh Phêrô đang cầm lũng lẵng một xâu chìa khóa, và Ngài chào:"Chào các con, các con vào đi!". Nhưng họ thưa:"Nhưng chúng con chưa được làm phép Hôn Phối.". Thánh Phêrô nói:"Cha biết, các con ngồi đây chờ cha tí nhé; cha đi tìm người có nhiệm vụ làm phép Hôn Phối đến làm cho các con rồi vào. Các con thật trong lành."

Hai anh chị ngồi chờ tứ sáng sớm đến chạng vạng mà thánh Phêrô sao mất dạng, không thấy trở về.

Đến gần chặp tối Ngài mới đến. Hai anh chị hỏi:"Cha quên chuyện của chúng con rồi hả?" - "Đâu có, cha đi lo chuyện cho các con đấy chứ."

- "Vậy người ấy đâu cha?" - Thánh Phêrô buồn buồn nói: "Cha đi khắp từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài; ngỏ ngách nào, xó xỉnh nào cha cũng lục lọi, tìm tòi nhưng không tìm ra người có nhiệm vụ làm phép Hôn Phối cho các con." –
"Vậy giờ làm sao cha?" - Thánh Phêrô: "Chẳng lẽ các con phải đứng đây đời đời? Có hay không có chẳng quan trọng. Các con cứ vào đi!"
Saturday March 8, 2008 - 04:58pm (ICT)
ái chà, đọc cái entry này làm em nhớ đến câu chuyện, con nhân sư biết ngậm miệng cắn đứt bàn tay của những kẻ nói dối. Đó có phải là sự tưởng tượng của loài người mà ra. Người ta bảo, khoa học viễn tưởng là sự thật trong tương lai mà. Ai biết được ngày mai ra sao đâu. Cũng như 20-30 năm trước, có ai biết được cái computer bây giờ hiện hữu đầy rẫy ra. Có lẽ ngày đó đã có ai nghĩ ra cái máy này rồi cũng nên.

Nhưng mà đã là máy thì cảm tính con người làm gì có, và nếu như trên đời này cái gì cũng sữ dụng máy ,thì một ngày thế giới thành vô cảm, cộng đồng con người còn sót lại trong thời đại ấy sẽ có lúc không biết mình là máy hay là người thật, vì môi trường ấy thì máy nhiều hơn người, máy sẽ chi phối con người, và làm bản tính con người bị giới hạn trước bản tính của máy.
Cho nên dù sao cũng nên coi máy là phương tiện cho con người hơn là nghĩ xem cách máy thay thế con người như thế nào.
Saturday March 8, 2008 –

Hồi đáp:
@PANDA>> Hình như đã có một phim viễn tưởng giả định một ngày kia con người bị máy móc cai trị! Đó là cái khuyến cáo mà Panda đã đưa ra. Chắc chắn là con người làm ra máy chứ máy không làm ra con người. Máy được con người lập trình ra để xử lý, nghĩa là con người cài đặt cách xử lý cho máy để giải quyết tức con người giải quyết chứ không phải là máy."Tin cả vào máy (sách), thà rằng không có máy (sách)."[Mạnh tử]

Và đúng như Panda nói: máy thì vô cảm! Nếu có xưng tội họ sẽ giang tay và ngửa mặt lên trời nói thẳng với Thượng đế [như người Tin Lành], hoặc quỳ mọp xuống thưa thẳng vơi Thượng đế [như người Hồi giáo] chứ chắng ai chịu chui vào cái máy vô cảm đó để xưng tội đâu!
Còn cái máy kia, mình nghĩ nó chỉ là một ngụ ngôn hậu hiện đại mà thôi. Người làm ra máy đó chẳng có ảo tưởng gì đâu - mình tin vậy -

Sunday March 9, 2008 - 10:40am (ICT)
Em thì còn nhỏ tuổi, chưa có nhiều kinh nghiệm sống lẫn những nghiên cứu sâu sắc như các anh chị, nhưng theo em, em vẫn chọn hình thức sám hối và xưng tội cổ điển anh ạ. Chẳng lẽ tội lỗi tày trời, bỏ ra chừng vài trăm đô la là sẽ hết tội và lòng mình ra về nhẹ nhõm? Thật sự có nhẹ nhõm nỗi không khi đã lỡ nhúng tay vào một tội ác nào đó mà Trời không dung, đất không tha hả anh? Nếu mà như thế, kẻ cướp của giết người sẽ rất sẳn lòng bỏ vào máy 500 đô la sau khi giết và cướp một phi vụ 10.000 đô la chẳng hạn.

Đúng như các anh đã phân tích, vấn đề ở đây chỉ là yếu tố tâm lý mà thôi. Mà đã là như thế, thì em vẫn duy trì quan niệm và tín ngưỡng của em vào Đấng Thiêng Liêng vô hình, chứ không thể nào em tin vào cái máy đó cả anh ạ.

Đã phàm là con người, thì không ai có thể vỗ ngực xưng tên rằng mình luôn luôn đúng, luôn luôn không mắc sai lầm, tội lỗi..., bởi ông bà ta đã từng có câu:"Bảy mươi chưa què chưa đui chớ gọi là lành". Vấn đề là, sự giác ngộ tội lỗi, sai phạm đó của chúng ta có hay không? Ăn năn, nhưng có hối cải và sửa đổi hay không? Hay chỉ đến nhà thờ, chùa chiền xưng tội, xin xoá tội, rồi sau đó lại tiếp tục "chứng nào tật ấy".

Trao đổi giữa anh và chị Panda về vấn đề máy móc, em nghĩ rằng con người tạo ra máy móc để máy móc phục vụ cho lợi ích của mình, do vậy máy móc không thể nào thống trị và tạo ra con người được cả. Cái máy vô tâm và vô cảm, nó chỉ biết làm theo những lệnh đã được lập trình hoá, chứ nó không biết cười, không biết khóc, không biết thương cảm, không biết căm ghét trước những chuyện đời ngổn ngang vui buồn, oan trái, ưu tư của loài người chúng ta.

Monday March 10, 2008 - 06:14pm (ICT)

Hồi đáp:
@Mdleechen…>>>Đúng vậy Leechen, máy thì nó vẫn là cái máy do con người tạo ra và điều khiển nó chứ nó chẳng thể bao giờ điều khiển lại con nguời, ngoại trừ ai tin vào máy quá thì chũng chỉ làm mất đi cái giá trị chủ nhân của con người mà thôi.
"Máy xưng tội tự động" với một chút tưởng tượng vui vui của người viết: bỏ thêm tiền vào cho kỳ được tha tội! Ở đây người tưởng tượng muốn gợi lại cái kỷ niệm xa xăm thời trung cổ Âu châu, Giáo Hội Công giáo cũng đã một lần làm như thế: muốn được tha tội cứ vào Ngân hàng mua một chi phiếu tùy vào tội của mình (chắc là mình tự đánh giá tội đó mệnh giá bao nhiêu tiền) thế là tội tự nhiên biến mất. Chính Luther phản đối cái cách buôn thần bán phép thánh này mà bị đuổi ra khỏi Giáo hội! Không sao, Luther xé bản án "Dứt phép thông công" trước mặt đông đảo bốn đạo (Luther là một Giám mục Công giáo Roma) và tuyên bố ra Tin Lành. Tin Lành được hình thành từ đó - ít ra từ cái phép giải tội bằng tiền đó –

Ít dòng chia xẻ với Leechen và các bạn.
Cám ơn Lee và các bạn đến góp vui cho thêm lửa entry này.
Monday March 10, 2008 - 06:48pm (ICT)
Trao đổi sôi nổi thật, nếu có máy thì có một số người thất nghiệp nhưng sẽ tạo việc làm cho một số người khác.
Tuesday March 11, 2008 - 11:15am (ICT)
Hồi đáp:
@tmaid...>> Mình thấy cái người phát kiến ra chiếc máy này có cái ý tưởng thật lạ: xưng tội với máy, và ắt là máy phải giải tội thôi. Chiếc máy nằm đó như một sự gợi ý, một câu đố, và kể cả một thách thức! Nhưng cái lạ, cái hay nữa là Giáo hội lẫn tín đồ "bên đó" đều không có ý kiến.
"Tại sao?" sẽ mở ra giải đáp còn lý thú hơn nữa!
Tuesday March 11, 2008 - 12:04pm (ICT)
*********

@ <Máy được sử dụng> Trong trường hợp này, máy có thể được thay thế linh mục được không? Xét về cái máy thì nó chỉ là một vật vô tri thôi thì chỉ đúng về phương diện vật lý, nhưng về phương diện tâm linh chưa hẳn một vật vô tri không đóng vai trò hữu dụng trong niềm tin. Bằng chứng là các tôn giáo thờ ngẫu tượng (Paganisme): tín đồ đặt trọn niềm tin vào khúc gỗ, hòn đá, tượng đắp bằng thạch cao...và họ kính cẩn và cầu xin chính bức tượng đó như chính họ cầu nguyện chính đấng thiêng liêng của họ. Khi ấy, cái ngẫu tượng đó chỉ là biểu tượng (tượng trưng) thay mặt cho Đấng họ kính ngưỡng chứ đơn thuần không còn là một vật hoàn toàn vật lý nữa.

Một thời tín đồ Công giáo Âu châu sau cách mạng 1789 (Pháp) đã xông vào nhà thờ đập phá các bức tượng vì họ cho rằng như thế là mê tín dị đoan và cũng chỉ là một hình thức thờ ngẫu tượng thôi; nhưng phe này thất bại và phe thờ hình tượng chiến thắng cho đến ngày nay.

Bột mì không men làm thành bánh và chút rượu nho được vị chủ tế làm phép; nó liền trở thành mình và máu Chúa Kitô. Ai tin thì cứ tin, ai không tin thì cứ không tin.

Vậy chiếc máy xưng tội này nếu được làm phép nó cũng có thể đóng vai trò được Giáo hội quy định và lòng tin của tín đồ cũng sắt son như họ quì thầm thì nói chuyện hay cầu nguyện trước một cây thánh giá bằng gỗ hay thạch cao!
Người Hồi giáo hàng năm về Lameque cũng chỉ để dập đầu trước một hón đá cầu nguyện, nhưng với họ hòn đá đen to tướng đó bổng dưng mất giá trị về mặt vật lý vô tri mà là chính thần tính Alha của họ.

@ <Máy được đặt đó như một dụ ngôn> như một thách thức Giáo hội CG có nên xét lại phép bí tích giải tội không? Nếu vị linh mục có quyền tha tội như được Giáo hội nại ra trong Kinh thánh thì liệu vai trò phán xét của Thiên Chúa có còn giá trị gì nữa không? Từng lúc trong cuộc đời ta đã xưng tội và được tha có khác gì ta đã được bạch hóa hồ sơ trước khi đến Tòa (Phán Xét)! Đó là lý do Tin Lành không tin vào Bí tích Giải tội.

@ Và chiếc máy nằm đó mà Giáo hội CG cũng như tín đồ đều không lên tiếng phản đối là một dấu hiệu sáng sủa của nhân loại - qua rồi cái thời tối tăm trung cổ - Cuộc trắc nghiệm của người làm ra máy này thật thú vị!

Mừng cho nhân loại: Văn đã Hóa rồi! (esthétiser/estheticize)

Cô gái Qatif


Thứ Hai, 26/11/2007 - 10:32 AM

(Dân trí) - Bộ Tư pháp Ảrập hôm thứ bảy vừa qua đã cung cấp thêm thông tin để quyết bảo vệ án phạt của mình đối với cô gái bị hiếp dâm tập thể gây xôn xao dư luận. Đó là khi bị tấn công cô đã ăn mặc không đứng đắn trong xe của người tình.

Thông tin trên được hãng thông tấn Ảrập đăng tải cuối ngày thứ bảy vừ qua, để bảo vệ phán quyết của tòa, 6 tháng tù giam và 200 roi, đối với cô gái bị hãm hiếp tập thể. Họ cho rằng cô gái đã vi phạm nghiêm trọng luật “thụ thụ bất thân” của đạo Hồi.

Động thái trên của Bộ tư pháp cũng nhằm xoa dịu dư luận sau khi cô gái nói với các phóng viên rằng khi bị tấn công, cô đang gặp gỡ với một người bạn cũ thời trung học của mình.

Được biết đến với cái tên “cô gái Qatif”, nạn nhân bị hãm hiếp tập thể, 19 tuổi mới kết hôn. Khi bị tấn công ở phía đông thành phố Qatif, cô đang gặp một người bạn thời trung học để đòi lại bức ảnh của mình. Trong khi đang ở trong xe với người bạn, hai người đàn ông lạ mặt trên một chiếc xe khác đã chặn họ lại và đưa họ đến một nơi vắng người. Một số tên khác cũng đang đợi ở đây. Sau đó, cả cô gái và người bạn của cô đều bị hãm hiếp.

Bộ tư pháp Ả rập cho rằng phán quyết của họ, phạt 6 tháng tù và 200 roi đối với cô gái, là hoàn toàn hợp pháp, đúng theo “sách của Thánh và những lời dạy của đấng tiên tri Mohammed

Cô gái bị hãm hại mới đầu bị xử phạt tù và 90 roi vì tội một mình đi cùng một người đàn ông không phải là người họ hàng của cô. Khi luật sư của cô, Abdul Rahman al-Lahem, kháng án, anh đã bị treo giấy phép hành nghề và mức phạt của cô gái tăng lên 200 roi.

Vụ việc đã gây xôn xao trên khắp thế giới, chính phủ Mỹ cũng phải bày tỏ ngạc nhiên. Còn Canada gọi vụ việc thật “man rợ”.

Theo quy định nghiêm khắc của luật Hồi giáo Sharia, phụ nữ không được phép xuất hiện ở nơi công cộng với những người đàn ông không phải là họ hàng của họ. Ngoài ra, phụ nữ Ả rập Xê út cũng thường xuyên bị phạt đòn roi và thậm chí bị khép tội chết nếu ngoại tình hoặc phạm các tội khác.
                                                                                [Trang Thu Theo AP]

Một cô gái 19 tuổi bị 7 kẻ hiếp dâm lại bị Tóa Án kết tội 6 tháng tù giam và đánh đòn 200 roi! Bản án “gây xôn xao dư luận” và được Canada gọi là “man rợ”.
 
Tính chất “man rợ” đó được bảo vệ từ Kinh thánh Coran của tiên tri Mohammed (Mahomet) – Đấng sáng lập ra Hồi giáo – mà “Bộ Tư pháp Á rập cho rằng phán quyết của họ, phạt 6 tháng tù và 200 roi với cô gái, là hoàn toàn hợp pháp, theo đúng sách của Thánh và những lời dạy của đấng tiên tri Mohammed” [Teo AP-26.11.2007-Thu Trang]

Ta đứng ở một nền văn hóa này mà nhìn qua một nền văn hóa khác, ta thấy “nó” còn tính chất “man rợ”; nhưng con người sống trong nền “văn hóa đó”, họ bảo họ đã tiến xa văn hóa đàn bầy vượn người rồi! Và đúng vậy, họ đâu còn là thời đồ đá nữa, dẫu là đá cũ hay đá mới!

Lịch sử loài người, 1.000 năm hay 2.000 năm vẫn còn gần lắm. Với cái phong hóa của người Á rập, thì người đàn bà ngoại tình phải bị ném đá; và cách đây hơn 2.000 năm Đức Giêsu đã thách thức và phá vỡ cái luật ấy: Ngài nói với những người cáo buột người đàn bà tà dâm – bị điệu ra trước dân chúng – rằng: “Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy ném đá trước nhất vào người này.” [Giăng.8:7] Đám dân chúng không ai ném đá và dần dần rút lui; chỉ còn lại người đàn bà ấy và Ngài. Ngài hỏi: “ Những kẻ cáo ngươi ở đâu? Không ai định tội ngươi sao? Người đàn bà thưa rằng: “Lạy Chúa, không ai hết.”Đức Giêsu phán rằng: “ Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa”. [Giăng.8:10,11].

Sự tiến hóa kể cũng hơi chậm; nhưng có còn hơn không: ước gì chỉ bị tù và bị đòn roi thôi chứ không còn bị ném đá như xưa nữa! Tuy nhiên điều ước đã bị phá vỡ : ngày nay vẫn còn tục ném đá vì người đàn bà ngoại tình…  (chứ đàn ông không bị buộc tội ngoại tình) … vì đốt kinh Coran…

Vì Kinh có chép : « Bất cứ người đàn bà nào có chồng bị cáo buộc về tội ngoại tình đều bị đem ra cho công chúng ném đá đến chết » (Coran IV:15)

Đối với Kinh Coran mà Tiên tri Mahomet coi đàn bà là cái họa ghê gớm nhất cho đàn ông và cho rằng đại đa số phụ nữ sẽ phải xuống hỏa ngục.

(Will Durant – Văn Minh Á rập – Nguyễn Hiến Lê dịch – Phục Hưng xb. – 1974-tr.56)

Kinh Koran còn minh thị xác nhận uy quyền của đàn ông đối với đàn bà: "Đàn ông có quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra đàn ông cao quí hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của mình ra để nuôi họ. Đàn bà tốt phải biết vâng lời đàn ông vì đàn ông săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho nằm chung giường và có quyền đánh đập". (Coran IV:34).

¤ Kinh Koran coi thiên đàng là "Khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời", còn ở trên thế gian nầy thì đàn bà là "cánh đồng lạc thú" mà mọi nguời đàn ông đều có quyền chủ động bước vào nếu muốn: "Women are your field, go into your field whence you please" – (Coran II: 221)

¤ Phụ nữ được coi như một” sở ruộng” của đàn ông để đàn ông gieo giống¸ và đàn ông có bổn phận sinh con để nối dõi. Người vợ phải nhận rằng chồng thông minh tài giỏi hơn mình, và do đó, phải phục tòng chồng; nếu phản kháng thì chồng sẽ đánh bằng roi và bắt ngủ riêng (IV)
Will Durant – Văn Minh Á rập – Nguyễn Hiến Lê dịch – Phục Hưng xb. – 1974-tr.58)


Trong Kinh Sách khác cũng nổi hứng sỉ nhục người phụ nữ không kém: “Ngài (Jéhova Đức Chúa Trời) phán cùng người nữ (Eva) rằng:“Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”. (Cựu Ước – Sáng Thế Ký: 3.16)

Và trong Kinh Sách khác cũng để lại dấu ấn không mấy tốt đẹp về thân phận người phụ nữ: “Nói một cách đại khái thì, đối với việc tu đạo, Phật quan niệm rằng phụ nữ kém nam giới, đó là một sự thật, cứ xem trong các kinh điển có nhiều chổ nói về những nhược điểm của phụ nữ cũng đủ rõ.” 

[tr.312-“Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận”-KIMURA TAIKEN].

Và “Duy về phương diện pháp tướng thì giữa nam giới và nữ có sự khu biệt. Chẳng hạn, một trong những sự khu biệt đó là đàn bà không thể là Như Lai (và Chuyển-Luân-Thành-Vương).[tr.313-sd-] Và “Nếu nói theo pháp tướng, thì đàn bà, nếu kiếp sau sinh làm đàn    ông, sẽ có thể làm Như Lai (và Chuyuển Luân Vương). Như vậy, đàn bà kém đàn ông chẳng qua cũng chỉ cách nhau một kiếp mà thôi. [tr.314-sd-]

Như lời Nguyện (thứ 35) của Đức Phật A Di Đà: “Tôi thành Phật rồi, nguyện cho hàng phụ nữ trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, bèn ra sức tinh tấn mà trì niệm, phát tâm tu đến thành Chánh giác, nhàm chán sự luân hồi làm thân phụ nữ, như vậy nếu về sau có sanh ra nữa, thì khỏi mang thân phụ nữ.”

[tr.129-“Các tông phái đạo Phật”-Đoàn Trung Còn-xb,Thuận Hóa-1995].
-“Tóm lại, nếu xử lý về phương diện hình thức thì, dĩ nhiên, đức Phật đã coi phụ nữ kém nam giới.” [tr.316-NTPGTTL-sd. trên]

Lịch sử loài người, 400 - 500 năm quả là như đầu hôm sớm mai rọt ròng , không xa xăm mấy, dầu là tiến hóa!

Xin nhắc đến Gioani Bruno (1600-bị thiêu trên giàn hỏa chỉ vì phát biểu quả đất quây quanh nặt trời theo thuyết của Copernic) chỉ để làm một biểu tượng thôi, chứ trước đó và sau đó, giàn hỏa của Thánh Tòa Roma vẫn rực cháy… để nướng những con người dám nói ngược lại Kinh Thánh – dầu là những phát biểu khoa học -. Sách được đốt và người được thiêu; và tiến hóa hơn là bản án tử hình trong trường hợp ông Salman Rushdie bị Tòa án Hồi giáo Iran kết án tử hình – mà tử hình là phải bị treo cổ - chỉ vì nói điều Giáo hội Hồi giáo không hài lòng.

Và Bà M. Nasrin (Belgale) bị truy đuổi chỉ vì bênh vực thân phận tôi đòi của phụ nữ trong văn hóa Hồi giáo. Ôi! Bước Hóa Văn của con người kể là chậm!

Chậm lắm : Em bé Pakistan Malala Yousafzai bị Taliban ám sát ngày 09 tháng 10 năm 2012 chỉ vì em tranh đấu cho quyền được học hành của các em và nói riêng cho phụ nữ. Mong ước của em thật bé nhỏ : « One Book, One Pen, One Teacher » (một cuốn sách, một cây bút, một thầy giáo) mà vẫn bị những kẻ Hồi giáo cực đoan sát hại để trừ hậu họa ; vì một khi phụ nữ hiểu biết thì giới đàn ông thiệt thòi quyền lợi… cái quyền cai trị đàn bà!

Đất nước Indonesia khoảng 300 triệu dân mà hết hơn 90% là tín đồ Hồi giáo. Một quốc gia có số tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới.

Chính quyền một thành phố tại Indonesia đề nghị thực hiện xét nghiệm trinh tiết các nữ sinh. Xét nghiệm này được xem như chiếc chìa khóa để vào các cổng trường trung học cấp 3, hợp thức hóa các năm học và thậm chí để nhận bằng cấp. Chủ đề này được nhật báo cộng sản L’Humanité chú ý đến qua hàng tựa «Tại Indonesia, hãy làm xét nghiệm trinh tiết trước đã!»

L’Humanité cho hay, lấy cảm hứng từ ý tưởng này, Hội đồng Giáo lý Indonsia tại Java còn đi xa hơn, đề nghị đưa vào kiểu xét nghiệm nhục nhã và phân biệt vào cả trong Hiến Pháp.

http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130919-duc-phat-tam-diem-cua-su-doi-dau-trung-an

Giết những em bé gái đòi đi học...và văn minh hơn là dùng biện pháp "kiểm tra trinh tiết"...cũng chỉ nhằm mục đích cấm phụ nữ mở mang học vấn.

- Để làm gì?: - Để cai trị!

Việt Nam cũng đã một thời xử người đàn bà ngoại tình bằng cách cạo đầu bôi vôi và lôi ra giữa Đình đánh bằng gậy. Cái thời ấy, người đàn ông còn được năm thê bảy thiếp. Và xin cảm ơn, bước tiến hóa chỉ không đầy 200 năm mà nay đã khác hẳn – xã hội không còn đồng tình với cái thói man rợ ấy nữa!

Đức Giáo Hoàng không dùng bao cao su

Chiến dịch của cộng đồng mạng - Ảnh AFP

Trong chuyến viếng thăm Châu Phi cuối tháng Ba-2009, nói chuyện với các phóng viên trên đường tới thủ đô Yaounde của Cameroon, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói: HIV/AIDS là một bi kịch mà không thể dùng tiền để xử lý, cũng không thể dùng việc phân phát bao cao su (préservatif) nhằm khắc phục - mà việc đó chỉ làm tăng thêm vấn đề mà thôi". (*)

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/03/090317_pope_condom.shtml
… như một quả bôm nổ chùm…gây ra chấn động dây chuyền…mà chưa biết đến bao giờ thì tiếng vang ngưng đọng lại.

Tiếng ECHO đã dội lại:

Ngay lập tức, New York Times (NYT) lên tiếng phê phán và nhắc lại kết quả nghiên cứu khoa học chứng minh rằng, bao cao su ngăn ngừa truyền nhiễm AIDS với hiệu quả 80%.
 “Giáo hoàng có toàn quyền nói lên sự chống đối sử dụng bao cao su dựa trên nền tảng đạo đức theo quan điểm của Giáo hội công giáo. Nhưng không thể dùng đức tin khi bóp méo sự việc về giá trị của chúng trong việc ngăn chặn dịch bệnh AIDS”.
    
 “Giáo Hoàng đã sai lầm. Chưa hề có chứng minh nào nói sử dụng bao cao su làm tăng mức độ dịch bệnh, ngược lại có không ít chứng minh rằng, bao cao su, dù không là thuốc bách bệnh, có hiệu quả trong rất nhiều hoàn cảnh”.  [Hãng Thông tấn Ba Lan PAP 18/03/2009 dẫn nguồn của NYT]

Và giới chức chính quyền các quốc gia trên thế giới đồng loạt đưa ra lời phản kháng:

* Bộ Ngoại giao Pháp kịch liệt phản đối bình luận của Giáo hoàng. "Dù chúng tôi không có quyền đánh giá giáo lý của giáo hội, chúng tôi xem bình luận trên là một mối đe dọa tới các chính sách về y tế và nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống con người", phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Pháp Eric Chevallier cho biết.

* Bộ trưởng Y tế Đức Ulla Schmidt và Bộ trưởng Phát triển Heidemarie Wieczorek-Zeul cũng lên tiếng phản đối. "Bao cao su bảo vệ cuộc sống của con người ở châu Âu cũng như các châu lục khác", họ nói trong một tuyên bố :"Giáo hoàng chỉ làm tình hình thêm xấu đi".

* Bộ trưởng Phát triển Hà Lan Bert Koenders thì nhận định việc Giáo hoàng "không cho phép nhiều người tự bảo vệ bản thân là vô cùng nguy hiểm và nghiêm trọng".

* Các nhà vận động cho rằng bao cao su là một trong những số ít biện pháp được xác định là giúp ngăn HIV. Khoảng 22 triệu người bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này ở phần bán sa mạc Sahara thuộc châu Phi, theo số liệu của Liên Hợp Quốc năm 2007. Con số này chiếm hai phần ba người bị nhiễm HIV trên toàn cầu. [vn.Express]-Hải Ninh (theo BBC)


* Giới chuyên môn cũng không tiết kiệm những lời phê phán. Tạp chí y học uy tín “The Lancet” với bài “Sự cứu rỗi dành cho Giáo Hoàng” cáo buộc Giáo Hoàng Benedict XVI “đã tráo đổi các xác định khoa học trước công luận nhằm quảng bá học thuyết công giáo” và đòi Giáo Hoàng phải rút lại những phát biểu của mình.

* Trong khi đó, cộng đồng mạng trên Facebook tiến hành chiến dịch xuyên quốc gia mang tên “Condom cho Giáo Hoàng Benedict XVI”, dự tính sẽ mua và gửi đến Giáo Hoàng hàng triệu bao cao su. Nguồn tin gần gũi với Giáo Hoàng tại Ý cho biết có khoảng 60 ngàn người nhập cuộc và họ hy vọng chiến dịch sẽ tràn qua các nước khác, đặc biệt là Hoa Kỳ và Anh. Hiện đã có hàng ngàn người ở Pháp, Anh, Đức, Áo và Bulgaria tham gia. Một thành viên của cộng đồng mạng Facebook viết mình “kinh ngạc” khi thấy một người cống hiến cả cuộc đời để truyền bá các nguyên tắc đạo đức “mà sao lạc hậu và trong vấn
đề này lại có thể hạn chế, mù quáng và thiếu trách nhiệm như vậy”. Người khác viết rằng, “những người chăn dắt tinh thần nói chung không làm tình, vậy sao họ có thể nói người khác phải làm thế nào?”.
   [Portal Ba Lan Onet.pl 28/03/2009 dẫn nguồn của CNN và Daily Telegraf]

Xin nhắc lại một ngụ ngôn: Đức Thích ca nói:  Khi một người bị mũi tên đôc ghim vào:

 “Hỡi Malunkyaputta, nếu một người nào nói: ‘ Tôi sẽ không sống đời Phạm hạnh dưới bóng Thế tôn, nếu Ngài không giải thích cho tôi những vấn đề ấy’, thì y có thể chết trước khi những câu hỏi ấy được Như lai giải đáp…Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không biết được loại cung nào đã bắn ra, dây cung ra sao, loại mũi tên gì, làm bằng lông gì và đầu tên làm bằng chất gì. Hỡi Malunkyaputta, người ấy sẽ chết trước khi biết được điều nào trong số những câu hỏi ấy. Cũng thế, hỡi Malunkyaputta, nếu một người nói: “ Ta sẽ không theo đời sống Phạm hạnh dưới bóng Như lai cho đến khi Ngài giải đáp những câu hỏi như thế giới trường tồn hay không, v.v….”, người ấy sẽ chết trước khi được Như lai giải đáp.”

[WALPOLA  RAHUL “Tư Tưởng Phật Học”(Con đường thoát khổ) –Thích nữ TRÍ HẢI dịch –Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh -1974- tr.20-21]

      Bạn để đó nghiên cứu trách nhiệm…lý do…hay bạn rút mũi tên ra và lo việc chữa trị ngay?

      Khi đám cháy đã bùng lên…đội cứu hỏa lo dập tắt ngọn lửa ngay hay…khoan đã!!!...nói cho dân chúng khu vực ấy biết cách đề phòng hỏa hoạn…qui trách nhiệm cho kẻ gây ra tai họa?

Cứu người như cứu hỏa!!!

Một cuộc ẩu đả …thương tích trầm trọng… và gây ra án mạng: những người hiện diện nơi ấy – nếu có lương tâm – phải giúp đưa những nạn nhân ấy đi cấp cứu lập tức chứ không phải đứng đó phân tích và tranh cãi để qui trách nhiệm về ai.

Chuyện bé Duyệt Duyệt (&) cho chúng ta nhìn rõ một cách tận tường “cái vô cảm” của những người đi đường và “cái lương tri” của bà công nhân vệ sinh Trần Hiền Muội kia khác ra sao!

Thấy chết mà không cứu…liệu đó là người có trách nhiệm? có còn nhân tâm nữa không?

Thử hỏi như các trường hộp trên có khác chi việc nhiễm HIV trong hoàn cảnh Y khoa đang “bó tay” mà người có trách nhiệm lẽ nào đứng nhìn mà nói: “không thể dùng tiền để xử lý, cũng không thể dùng việc phân phát bao cao su (préservatif) nhằm khắc phục” [(*) GH Benedict XVI]

Vậy “xử lý” ra sao? Và “khắc phục” thế nào? Nếu không dùng cái “préservatif” để bảo vệ, phòng thủ khi chưa có thuốc chữa trị thì “việc đó có làm tăng thêm vấn đề” (*) không?

 “HIV/AIDS là một bi kịch mà không thể dùng tiền để xử lý”. Đây là một “sáng kiến toàn cầu” trong cơn nguy biến này?

Dùng “tiền” để “xử lý” chỉ là “hạ sách”???  “Tiền” chỉ tăng thêm “vấn đề” (“rắc rối” = problème/problem)???

 “Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-Moon nói rằng thế giới "cuối cùng đã tiến đến được chỗ có thể chấm dứt dịch bệnh AIDS," tuy nhiên ông thúc hối các nhà cấp viện quốc tế đáp ứng khoảng 24 tỉ đôla mà mỗi năm cần đến để cấp ngân quỹ đầy đủ cho các sáng kiến toàn cầu.”
”[http://www.voanews.com/vietnamese/news/africa/un-aids-11-30-2011-134757593.html]

Và ông Mitchell Warren, người đứng đầu của Tốc chức AVAC, trước đây được gọi là Liên Minh vì Vắcxin chống bệnh AIDS, cho biết: “Cần có tiền. Cần có nhiều tiền chứ không phải ít… Nếu gặp bước lùi thì sẽ là một tai hoạ lớn nhất vì những tiến bộ chúng ta đạt được không trở lại nữa một cách dễ dàng và rất tốn kém.”
[http://www.voanews.com/vietnamese/news/medicine/aids-avac-de-capua-11-30-11-134790408.html]

      Mọi người có trách nhiệm trên toàn thế giới đang xắn tay áo, ghé vai vào và bước xuống nước cùng nhau đắp bờ ngăn chặn cơn lũ đang tràn về!

           Còn Đức GH Benedict XVI thì làm gì trước tai họa này? – Giảng giáo lý thì ắt nhiên mọi rắc rối (problème) sẽ giảm? Ngài có dám khẳng định đây là con đường (Đạo) đúng không?

Bài học về “tiết dục” hầu như mọi người đều thuộc lóng…và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng như lãnh đạo mọi quốc gia đều nhắc nhở, khuyến cáo và cung cấp những thông tin để hiểu biết về căn bệnh nguy hiểm này rất phổ cập. Nhưng “thực hành” mà hệ quả của nó mới là “vấn đề” mà từng cá nhân và cộng đồng cần phải quan tâm.

Nổ lực của những người hằng tâm đến đại họa này đang cố gắng làm giảm nhẹ “quan điểm”: cách nhìn nhận và đánh giá việc lây nhiễm HIV như một việc bình thường như bao loại bệnh khác để nhằm đánh bạc cái mặc cảm của những người đã lỡ bị nhiễm để làm cho họ ý thức quyền được tiếp cận tất cả các phương tiện cung cấp và chăm sóc phòng chống và chữa trị HIV là một phần của “quyền con người.” (Human Rights).

Các tổ chức y tế trên thế giới kêu gọi cộng đồng phải khuyến khích các thành viên của họ để họ bớt e ngại vì mặc cảm tội lỗi (sic) hầu mỗi cá nhân phải cảm nhận được sự ủy quyền để chữa trị, để hiểu biết quyền của họ và hành động chống lại sự kỳ thị và phân biệt đối xử và để biết và sử dụng việc nhận và truyền HIV để tránh việc giấu kín mà tai hại còn lớn hơn cho cộng đồng.

 Thế nhưng vị đứng đầu Giáo Hội Công Giáo lại mớm cái ý khá xấu xa cho việc lây lan HIV như là một hành vi tình dục bất chính. Chính ý nghĩ này làm cho người bị nhiễm thấy mình “tội lỗi” (sic) cho nên không dám công khai. Cái sự không công khai này mới chính là “cái rắc rối” (problème) cho cộng đồng nhân loại.

*************
Các Đức Giáo Hoàng…(trước kia)… có tiết dục: chỉ một vài người vợ là đủ…không nên có nhiều hơn…và cung tần mỹ nữ in ít thôi…vài ba ngàn là đủ…đâu cần tới vài ba chục ngàn như vậy?

 “Giáo hoàng và các Hồng y giáo chủ công nhiên dẫn tình nhân đi trước mặt mọi người. Số thị nữ của họ tới sáu ngàn tám trăm. Hơn cả Tần thủy hoàng của Trung hoa nhiều lắm.”

[Nguyễn Hiến Lê – “Lịch sử thế giới”  Cuốn III-Thời Cận Đại-–tr.49- xb.NGUYỄN HIẾN LÊ-1955]

    “Và cũng trong thế kỷ này (tk.XI-XIII) Giáo hội chịu ảnh hưởng nhiều tệ nạn, đặt biệt là việc mại thánh (@) và tính xa hoa hưởng thụ, pha mình vào việc trần tục, các ngài đã đi quá giới hạn của mình…”
     “Vết loang ấy vẫn trãi dài, vẫn ngạo nghễ để trở thành cái gai trong cung điện Vatican khi Đức Giáo Hoàng Alexandro VI để lại hai đứa con hoang gây bao nhiêu phiền toái cho Giáo hội ở thời kỳ này.”

[Công Giáo Ngày Nay số 8/tháng 8-1995 – tr.59] …hai đứa con hoang…vì Đức Giáo Hoàng không dùng bao cao su.

      Ước gì Giáo hội Vatican nghe lời Gs Kim Định: “Biết áp dụng cho mỗi biến cố một lối hành xử là cả một công trình tuyệt diệu. » [Chữ Thời]

=================
(@)- việc mại thánh: “Khi Luther tách ly khỏi Giáo hội năm 1521 cũng do sự xuống dốc của Giáo hội thời ấy vì đã lạm dụng ân xá. Có kẻ đã dám nói rằng: “Một linh hồn được lên trời khi đồng tiền vang dưới đáy hòm tiền…”[sd.CGNN.tr.59]

(@)-  việc mại thánh: “giáo hoàng Leon X cho tổ chức những cuộc giải tội: bất cứ ai làm ra tội lỗi đều có thể bỏ tiền ra chuộc được…Sự gải tội ấy biến thành công cuộc thương mãi; giấy chứng nhận giải tội được bán ở ngân hàng.” [Nguyễn Hiến Lê “Lịch sử thế giới Cuốn III-Thời Cận Đại” – tr.52- sd]

     (&) tuoitreonline [Chủ Nhật, 23/10/2011, 07:48 (GMT+7)] TT - Liên quan đến 18 người thờ ơ thấy chết không cứu, dư luận Trung Quốc đang thảo luận nên hay không nên đưa vào quy định của luật pháp.

      Sự kiện bé Duyệt Duyệt gây chấn động Trung Quốc, kinh động nhân tâm con người. Cả xã hội lên án hành động vô cảm thờ ơ của 18 người qua đường không cứu em, lên án hành vi tàn nhẫn của hai tài xế cán qua thân thể em; tán dương hành động cứu người của bà Trần Hiền Muội

      Tại Pháp, nếu thấy người chết không cứu có thể bị xử phạt tù giam đến 5 năm và nộp phạt 500.000 france. Tại Đức, đối với tội danh này có thể bị cấm túc khoảng 1 năm.
                             

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

Hội Nghị Thượng Đỉnh Cung Đâu Suất


Các Ngài nghe phong phanh Liên Hiệp Quốc đứng ra đở đầu cho Phật Giáo tổ chức Lễ Phật Đản Sanh nên các Ngài triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để tìm phương kế “độ chúnh sanh” hòng hoằng Pháp để xiển dương Đạo Pháp.

Cuộc họp gồm các Phật quá khứ, hiện tại, tương lai:
-          Đức Phật Nhiêu Đăng, dức Phật A-Di-Đà, đức Phật Thích Ca, đức Phật Datlai Latma và đức Phật Di Lặc cùng các Bồ Tát:
c  Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quảng Đức Bồ Tát và 16 La Hán Buông Đao.

Còn các Bồ Tát và La Hán khác không được mời vì phòng hộp không đủ sức chứa với lại sợ nhiều ý kiến quá sẽ làm nhiễu loạn và có nguy cơ lạc đề.

Đức Phật Nhiêu Đăng là vị Phật tiền nhiệm của đức Thích Ca đồng thời cũng là vị Tổ Phật đầu tiên khai mạc buổi họp:

Thưa các vị đồng hữu và các môn sinh, hôm nay ta triệu tập các ngươi là để chuẩn bị đón tiếp ngày trọng đại Liên Hiệp Quốc đứng ra support cho thiện nam tín nữ của chúng ta trên khắp cái hành tinh qủa đất này mừng chú Thích Ca Đản Sanh tròn 2.553 tuổi. Chúng ta biết chú Kitô Giêsu mới có tròn 2009 tuổi mà đã được nhân loại mừng Giáng Sinh cũng từng ấy năm; nghĩa là đã 2009 lần rồi. 

2.552 năm nay nhân loại coi thường chúng ta, nay mới được tôn vinh. Đó là niềm vinh hạnh mà Đạo Pháp của chúng ta ân hưởng.

Nhân cơ hội này chúng ta phải chứng minh cho con người trên cái địa cầu này và trên các thế giới khác hiểu, biết và giác ngộ Đạo của chúng ta diệu kỳ như thế nào.

“Muốn làm thế, không gì bằng chúng ta phải dùng phép độ chúng sanh cho chúng rõ thế nào là Chánh Pháp.

“Mong các đồng hữu và các môn sinh tùy tài năng cá biệt của mình mà hóa phép mầu làm cho chúng sanh được giải thoát càng nhanh càng tốt. Đúng không?”.

Đức Thích Ca với vị trí kế nhiệm đức Tổ Phật nên Ngài Nhiêu Đăng cho phép phát biểu trước:

-“Thưa chư đồng hữu và chư môn sinh. Kình thưa đức Tổ Phật Nhiêu Đăng Tổng Tòa Sen; nếu để cho mỗi người tùy tài, tùy duyên mà tùy tiện độ chúng sanh tôi e rất dễ đụng hàng, sợ sinh ra tranh chấp làm cho Đạo Pháp của chúng ta trở thành manh múm mất. Tôi cũng đã từng áp dụng phương án này rồi và bằng chứng là trên cái trái đất này Đạo của chúng ta có quá nhiều Tông, nhiều Phái, nhiều Hệ làm cho nhân loại điên đầu rối trí. 

Đại Thừa chửi Tiểu Thừa là: “Tiểu-thừa có khuynh-hướng trốn đời, mong giải-thoát cho nhanh coi đời là bể khổ và bẩn-thỉu. (tr.438)  

“Tiểu-thừa ích kỷ và tiêu cực. Nhìn đời bằng con mắt bi-quan” (tr.438). 

“Tiểu-thừa chỉ là quyền-pháp để độ những người còn kém. Chính –pháp là giáo- lý Đại-thừa , chỉ cái bao-la cho chúng-sinh phát-triển.(tr.443) 

“Tiểu-thừa là phương diện thấp, hẹp, nông-cạn, thô-sơ của Phật-pháp.” (tr.444). 

“Tiểu-thừa mắc cái tội là làm cho chúng-sinh sau này hiểu lầm Phật-pháp, không hiểu được Chánh-pháp”(tr.445). 
Thế đấy! Đúng không? 

[“Phật Giáo” – Gs.Tuệ-Quang Nguyễn-Đăng-Long – Tủ Sách Phật Học xb.1964 – Thượng-Tọa Thích-Tâm-Châu giới thiệu] (1)

Đức Di Lặc liền tiếp lời:- “Anh Hai vừa nói thật chí phải. Như vậy là do lỗi của anh Hai. Anh Hai đã biết thế nào rồi Chánh pháp của mình cũng bị lợi dụng và chia chẻ thành tản mạn. Há chẳng phải anh đã tiên báo rằng Chánh Pháp của mình rồi cũng đến thời “mạt pháp” đó sao ? 

Biết mà không có cách nào ngăn chặn là anh đã chưa thấu suốt 3.000 thế giới, chưa thấu lòng người. Như vậy là chưa đạt chuẩn giác ngộ.

Anh có còn nhớ, mới khi ra đi trên bước đường tìm đạo anh đã sai lầm theo pháp tu khổ hạnh, chờ đến khi anh uống được ly sữa của cô gái kia anh mới tĩnh ngộ và anh ngồi thiền mới có 49 ngày mà anh vội vả giác ngộ nóng vội ; chi cho nên anh phạm sai lầm tiếp theo là giao Chánh pháp cho Ca Diếp chỉ với bằng một cành hoa. Anh có biết Ca Diếp hiểu gì chưa mà anh lật đật trao y bát mà bảo rằng “Chánh pháp nhãn tàng”. 

Đó không phải là cái lỗi của Ca Diếp. Đó là cái tội của anh. 

Tuy nhiên, thưa các cao huynh đệ và các môn đồ, không phải đến đây để chúng ta đổ thừa cho ai mà như Tổ Phật Nhiêu Đăng cáo bạch là chúng ta tìm biện pháp “hóa độ chúng sanh giải thoát” nên lời thừa nhận của anh Hai Thích Ca cũng cho ta một bài học đích đáng. 

Tôi đồng ý lời đề nghị của anh Hai cho tất cả chư quý vị. Còn riêng tôi, giờ tôi chưa đến. Tôi sẽ hạ hồi hóa độ siêu thoát chúng sanh trong thời kỳ sau rốt trước lúc thế mạc. Đúng không?”

 Phật A-Di-Đà phát biểu: “Tôi cũng đồng ý với chú Di Lặc. Tôi đã thông bác tất cả mọi Kinh Thánh của các đạo thờ Thượng Đế rằng không có Kinh nào viết một lời nào ở chương sách nào bảo năm 2000 là tận thế cả. 

Tôi có nghiên cứu thêm bên khoa học, họ bảo rằng quốc độ địa cầu này còn 400 triệu năm nữa mới tan tành thành bụi bặm. Do đó, chờ cho chú Di Lặc hóa độ chúng sanh thì quá trể vì chúng sanh sẽ phải ngụp lặn trong bể khổ dai dẵng như vậy lòng tôi thấy áy náy quá; mà để cho giáo pháp của anh Thích Ca hoán giải thì nó càng sa lầy thêm vì nó cũng là loại hàng đã hết hạng sử dụng rồi như anh Hai vừa trình bày.

“Với giáo pháp của tôi thì đơn giàn, nhẹ nhàng, đễ hiểu, dễ hành cho nên giải thoát là “chuyện nhỏ”. Chỉ cần một cái tràng hạt và kêu danh hiệu tôi “Nam Mô A-Di-Đà Phật” và niệm một trong 48 lời nguyền của tôi là giải thoát tức thì, không cần tu chứng hay thiền thiết gì cả. Đúng không?”

Đức Phật Datlai Lama hậu sinh khả úy đưa ra nhận định: “Trước hết tôi xin phép Bà Quan Âm Bồ tát cho tôi được có đôi lời riêng của tôi chứ không dám mạo mụi nhân danh là “sinh vô tính của Bà”. 

Sự phân ra thành nhiều giáo pháp không phải là chia chẻ mà chỉ là tùy duyên. Có tục ngữ nói rằng “bá nhân bá tánh”; vì thế mà từng mỗi tông phái ra đời là để đáp ứng cái duyên của từng người cũng như cần đến 84.000 pháp môn cho thích hợp vào mỗi nghiệp quả của mỗi sinh linh. Đó không phải là manh múm vụn vặt mà là những con đường thích hợp cho từng cá thể cảm ứng được sự tương thích. 

Pháp là Chánh Đạo nhưng không chấp vào tri kiến nhãn tàng cố hữu mà biến theo thực hữu ta bà lung linh ảo hóa thì Pháp mới thăng hoa và hiệu quả. Do đó, Pháp nào không hiệu quả không là Chánh pháp! 

Vấn đê hôm nay ở đây, như mục đích yêu cầu của Tổ Phật Nhiêu Đăng là chúng ta tìm ra một phương án giải thoát hiệu quả nhất để kịp cho Liên Hiệp Quốc xác nhận Đạo của chúng ta là “ Đạo Tốt Đẹp Nhất Thế Giới” để Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ghi vào sổ đầu bài là “Quốc Độ Phật Toàn Cầu Giáo”. Đúng không?

Bồ Tát Quảng Đức lên tiếng: - “Vì năm nay LHQ tổ chức lễ Phật Đản trên đất nước tôi cho nên tôi cũng có vài kinh nghiệm bản thân nho nhỏ để góp vào Hội Nghị. Tôi vì đấu tranh cho Chánh pháp mà được giải thoát. Vậy thì giải thoát đâu có gì khó. Các tín đồ của tôn giáo khác cũng đã bắt chước tôi ôm bôm đi giải thoát đó. Đúng không?

Bà Quán Thế Âm Bồ Tát cắt ngang lời của Bố Tát Quảng Đức: - “Nếu ai cũng làm như Ngài, nếu ai cũng chỉ lâm râm kêu tên “Nam-Mô A-Di-Đà Phật” thì được giải thoát, thì tôi còn việc gì để làm nữa.  Đúng không?”

Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát (*) tiếp lời Bà Quan Âm: -“Bà ở đâu ra thế? Đức Phật Datlai Lama là sinh vô tính của Bà, thế bà cũng là sinh vô tính của tôi sao? Datlai Lama dầu sinh vô tính chăng nữa nhưng đâu có chuyển giới tính, sao bà không giữ giới tính của tôi mà đâm ra lại cái vậy? Chuyện “cứu nạn cứu khổ” là trách nhiệm của tôi đã được đăng ký bản quyền với đức Thích Ca Như Lai đây từ khuya rồi. Đúng không?

“Đây, tôi xin trình ra cho cả Hội Nghị xét cho:

Duyên Mệnh Tạng Bồ Tát  từ đất xuất hiện, gối bên hữu quỳ thẳng, cánh tay ngang vai, gối bên tả ở dưới chân, tay cầm tích trượng, bạch Phật rằng: Con mỗi sáng sớm, nhập thiền định, vào các địa ngục, khiến cho chúng sanh thoát ly khỏi khổ nạn.

“Đời này và đời sau thế giới nào không có Phật, con cũng có thể dắt dẫn, chỉ đường và tế độ chúng sanh.

“Sau khi Phật diệt độ, nam nữ nào muốn được con ban phước, không cần xem ngày xấu tốt, không luận sạch nhơ, chỉ cần hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, lời nói sắc mặt hòa nhã, không oan uổng ai, không giết hại sinh mệnh, không phạm tà dâm.

Con từ bao nhiêu kiếp tới nay, thấy tất cả chúng sanh trong 6 đường, đồng một thể pháp tánh, không trước không sau, không sai không khác, bởi nghiệp vô minh mà thấy các tướng khác nhau, sanh, trụ, di, diệt, nào được nào mất, khởi niệm bất thiện, tạo mọi nghiệp ác, vòng quanh lục thú, kiếp kiếp làm cha mẹ lẫn nhau, đời đời làm anh em lẫn nhau. Tất cả đều sẽ thành Phật rồi con mới thành Phật. 

Nếu còn sót một người chưa diệt độ con thề chưa thành Phật.

“Chúng sanh nào biết được nguyện con, đời này và đời sau chỗ sở cầu không được thỏa mãn thì con thề không thành chánh giác.

“Phật khen Duyên Mệnh Tạng Bồ tát: “Hay lắm, hay lắm chân thiện nam tử (*)

Sau, khi ta diệt độ rồi, đời ác sau này, tội khổ chúng sanh, ta phó thác cho ông (*). Đời này đời sau ông (*) dắt dẫn khéo léo chớ để họ sa vào ác thú bằng gẩy móng tay huống chi đọa A-tỳ vô-gián địa ngục”

“Duyên Mệnh Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, xin chớ lo. Con sẽ cứu vớt chúng sanh trong 6 đường. Nếu ai khổ quá con xin chịu thay, không được như  vậy con thề không thành chính giác” 

[“Kinh Duyên Mạng Địa Tạng Bồ tát” - tr. 20-21-22-23 – Phật tử Mỹ Dung ấn tống – Phật lịch 2509 -1965]

“Kính thưa các Cao Tổ Phật và chư tôn giả; có mặt đức Phật Thích Ca đây và hôm đó có cả Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và cả Phổ Hiền Bồ tát làm chứng cho con; con xin thề độc; nếu con đêu ngoa lời nào, hộc máu chết liền và đi thẳng xuống A-tỳ ngay bây giờ. Đúng không?”

Đức Thích Ca và Văn Thù và Phổ Hiền bồ tát đều xác nhận cho ông.

Và Ngài Nhiêu Đăng hỏi bà Quan Âm: “Bà từ đâu tới ?”

Quan Âm: “Dạ, con từ Trung quốc đến ạ.”
-“Vẫy bà thuộc phái nào ?”
-“Con thuộc phái Đại Thừa ạ.”
-“Bà hãy thường thuật lại cho Hội chúng nghe bà nhấp nháy ra làm sao mà thành ra “thế này đây”.
-“Dạ, xing vâng! Nhưng lời con nói về con không đáng thuyết phục. Con nhờ chú Lục Tiểu Linh Đồng Tôn Ngộ Không làm sáng tỏ vấn đề ạ. Đúng không?”  

Đức Như Lai Thích Ca liền vời Tôn Ngộ Không Linh Đồng đến và nhắc nhở hôm nay chớ có quậy phá thiên cung như năm nào kẻo bị tội chẳng những 500 năm mà là 5.000 năm nữa đấy.  Và Lục Tiểu Linh Đồng tuân lệnh đọc bản cáo trạng biên khảo:

Ban đầu Quan Âm Bồ Tát được gọi là Quan Thế Âm, nghĩa là người luôn lắng nghe tiếng nói của thế nhân. Trong truyền thuyết, khi gặp hoàn cảnh khó khăn, chỉ cần miệng thầm niệm tên Quan Thế Âm, Quan Âm Bồ Tát sẽ nghe được tiếng kêu và đến giải cứu. Thời đại nhà Đường, nhân dân tránh tên húy của Đường Thái Tổ Lý Thế Dân nên bỏ mất chữ “Thế”, đổi thành Quan Âm. Sau đó lưu truyền đến ngày nay, người đời đều gọi là Quan Âm Bồ Tát. Do Quan Âm Bồ Tát đảm nhiệm trọng trách cứu khổ cứu nạn, thêm vẻ ngoài đoan trang xinh đẹp, được dân gian yêu mến và cung kính. Cho đến tận bây giờ, trong nhà rất nhiều người thờ phụng bài vị Quan Âm Bồ tát. Đó chính là tượng Quan Âm với vẻ mặt từ bi tọa Thiền tại “Tứ Trúc Lâm”.

“Khi cùng Phật du nhập vào Trung quốc, hình tượng và giới tính (*) Quan Âm Bồ Tát có nhiều thay đổi lớn. Tuy Quan Âm Bồ tát bị Trung quốc hóa, nhưng tấm lòng đại từ đại bi cùng nhiệm vụ giải cứu chúng sinh không hề thay đổi. Chúng ta xem xem tại sao Quan Âm Bồ Tát ở Trung quốc là nữ.

Vào thời kỳ Lưỡng Hán, Phật giáo du nhập vào Trung quốc, Quan Thế Âm xuất hiện với hình tượng của nam giới (*). Bức tranh tượng Quan Âm trong Thiên Phật tại Đôn Hoàng là tượng nam giới. Dưới ảnh hưởng ý thức thẩm mỹ trung quốc, Quan Âm Bồ Tát bắt đầu được thêm thắt những nét mang đậm bản sắc Trung quốc. Thời kỳ Nam Bắc Triều, hình vẽ Quan Âm Bồ Tát với thân hình nam giới, dung mạo nữ giới dần dần xuất hiện trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc. Thời nhà Đường, Quan Âm mang hình dạng nữ giới đã chiếm vị trí chủ đạo.”

“Quan Âm Bồ tát từ nam biến thành nữ (*), một phần là do nữ giới có trái tim đồng cảm, dịu dàng, hiền hậu hơn nam giới. Quan Âm Bồ Tát là nữ thì phù hợp với đặc điểm Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khô cứu nạn hơn. Ngoài ra, trong đệ tử nhà Phật có không ít ni cô, nữ giới theo đạo Phật cũng không ít.  Nếu như không có nữ Bồ Tát, nữ tín đồ khó nuôi dưỡng mong muốn thành Phật. Điều này dễ  gây tổn thương tính tích cực và lòng hướng đạo của tăng ni Phật tử. Có khi không có người nhang khói, Phật môn lạnh lẽo, mọi người sẽ thấy ngay cả Phật giáo cũng vô dụng. Có nữ Quan Âm Bồ tát, hiển nhiên là niềm an ủi và cổ vũ lớn lao cho tất cả tín đồ nữ. Có nhiều chuyện không tiện nói trước mặt nam giới nhưng lại có thể thổ lộ hết với Quan Âm Bồ tát. Với những nguyên nhân kể trên, sự ra đời của nữ Bồ Tát, trở thành một sự kiện lớn trong hoạt động Phật giáo. Sự xuất hiện của nữ Bồ Tát bù đắp những thiếu sót đáng tiếc của nam Bồ Tát. Như vậy, một Quan Âm Bồ Tát mang dáng dấp của phụ nữ với phong thái thướt tha, hiền hậu ắt hẳn sẽ được nữ giới tôn kính, xem như bậc tri kỷ; nam giới cũng tôn trọng bà, hy vọng được bà ban phúc.”

“Quan Âm Bồ Tát mang dáng dấp phụ nữ cũng thể hiện tiềm ý thức lưu luyến tình mẹ của dân tộc Hoa Hạ. Con cháu Diêm Hoàng vốn từ chế độ mẫu hệ chuyển sang chế độ phụ hệ, luôn khao khát và lưu luyến tình mẹ.”
-“Lục Tiểu Linh Đồng xin trình Hội Nghị.”

  [tác giả Lục Tiểu Linh Đồng (người đóng vai Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký) – “Lục Tiểu Linh Đồng bình TÂY DU ” [tập 1]  – tr.124-125-126 – Nhà XB Thời Đại.2010 -]

Chủ tọa Cổ Phật Nhiêu Đăng kết thúc Hội Nghị:

-“Thì giờ gấp gáp lắm rồi để trình lên UNESCO xin LHQ công nhận Đạo chúng ta là “Tôn giáo tốt nhất toàn cầu” nên các phương án giải thoát của các tôn giả tỏ ra kém hiệu quả như 84.000 pháp môn, tu chứng qua nhiều kiếp, ngồi thiền lâu lắc lâu lơ, hoặc nhờ ông bà bà ông Địa Tạng Quan Âm cứu nạn cứu khổ như thể phủi bụi. Tôi nhân danh chưởng môn Phật Đạo, chọn giải pháp giải thoát ngắn gọn, tức thì, nhanh nhất của ông A-Di-Đà làm Chánh Pháp. Đúng không?”

Mười Sáu vị La Hán rần rần ủng hộ: - “Chúng tôi nhất trí với Tổ Phật. Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì chỉ cần “buông đao” là đạt Chánh Quả nên nhân loại chỉ cần niệm “Nam Mô A-Di-Đà Phật” kèm với một lời nguyện trong “48 Lời Nguyền” của A-Di-Đà là tiện và lợn nhất. Đúng không?”

-“Không đúng! Không đúng! Không đúng! Bà Quan Âm, ông Địa Tạng, Ngài Quảng Đức, Văn Thù, Phổ Hiền bồ tát, đức Datlai Lama, đức Di Lặc, đức Thích Ca nhao nhao phản đối.

Thì bổng dưng hoa sen trên trời rơi xuống tràn ngập hội nghị, hương thơm tỏa ra ngan ngát, nhạc cung đình vang vọng lâng lâng và một tiếng vọng uy nghiêm vang lên: “Chúa đã bỏ loài người. Phật không bỏ loài người. Hãy niệm cầu “Nam Mô D-Di-Đà Phật” là nhất cú ta đã trao cho A-Di-Đà từ vạn thuở và kết luận của Nhiêu Đăng là chung kết. 
Hết!”

=========
Chú thích:
(1)“Đây là một thành công về nghệ thuật. Về phương diện văn chưong, ta phải khen tác giả đã khéo trình bày tư tưởng cao siêu, tế nhị, rất khó diễn tả thành một hệ thống rõ ràng, có phương pháp. Lời văn linh động, thiết tha, sáng sủa, khi hùng tráng, khi nhẹ nhàng, khi sâu sắc, khi cao siêu. Và rất lưu loát. Tác phẩm này không những nói lên những điều cần biết về Đạo Phật, lại kết tinh được tư tưởng nhân loại, gồm Đông-Tây, Kim-cổ. Đáng quý là tỏ rõ một cách linh động tinh thần hùng tráng, cao siêu của Phật pháp.

“Ta phải khen tác giả là một học giả, không những uyên thâm Phật học, mà cả về văn hóa, về khoa học, nghệ thuật cũng rất uyên bác. Có như thế mới trình bày được một cách tự nhiên, lưu loát, dễ dàng cả một hệ thống tư tưởng rất trừu tượng, tinh vi, thường bị chết trong rừng danh từ bí hiểm. Ta thấy tác giả là một nghệ sĩ, rung cảm trước muôn vẻ đẹp, và làm rung cảm lòng ta trước những vẻ đẹp tuyệt vời.

“Một tác phẩm như vậy làm hãnh diện đạo Phật. Nó sẽ giúp bao trí thức, Phật tử hiểu đạo, có một ý niệm rõ ràng và sâu sắc về đạo. Nó đã tả đúng chân-tinh-thần Phật giáo. Nó là nguồn cảm hứng cho người thiết tha tìm hiểu Chính pháp, cho người thực hành tu theo Chân lý.

Phạt giáo” sẽ độ vô số chúng sinh thành Chính giác. Sẽ tràn lan khắp nước Việt Nam. Sẽ tràn lan khắp thế giới, mang cho nhân loại bao “nguồn sáng mới”. Vì “Phật giáo” là Chính pháp.

[“Lời Giới Thiệu” – Thích Tâm Châu – Saigon, ngày 1-4-1964-Phật lịch 2507- sách dẫn trên]
==========
Bài này là để trả lời bài “Cuộc Họp của Các Thượng đế về Năm 2000” của Tiến sĩ Phật học Thích Nhật Từ đăng trên <vnthuquan.net>. Mời các bạn vào đó tìm <tác giả>“Thích Nhật Từ” hoặc <tựa bài> “Cuộc Họp của Các Thượng đế về Năm 2000” sẽ ra.

                   00000OOO00000

Thích Nhật Từ
“Cuộc Họp của Các Thượng đế về Năm 2000”
Vào những tháng cuối năm 1999, các vị Thượng đế của các tôn giáo lớn trên thế giới gặp gỡ nhau để tổ chức cuộc họp về năm 2000. Buổi họp đến, các Thượng đế cấp quốc tế, chẳng hạn như, của Ấn Độ, của Trung Quốc, của Do thái, của thành Gia-du-xa-lem và của khối Trung Đông đều có mặt. Ngoài ra, còn có các Thượng đế cấp quốc gia và địa phương đều đến đông đủ. Nhưng bất hạnh thay, các Thượng đế cấp nhỏ này không được dự họp, vì đẳng cấp xã hội thấp kém của mình. Họ phải đứng ngoài phòng họp để chờ kết quả. Chủ tọa của cuộc họp cấp cao về năm 2000 là Thượng đế của Ấn Độ, vị Thượng đế có tuổi lớn nhất. Thư ký của cuộc họp là Thượng đế của Trung Quốc.

-- "Kính thưa quý Thượng đế đồng nghiệp!" Thượng đế của Ấn Độ khai mạc cuộc họp, "Chỉ còn vài tháng nữa, năm 1999 sẽ trôi qua và năm 2000 sẽ đến, cái năm mà kinh thánh của một số Thượng đế ghi rằng sẽ tận thế. Quý Thượng đế đồng nghiệp có ý kiến gì về cái ngày này và có biện pháp gì để biến nó thành hiện thực," Thượng đế chủ tọa trân trọng ngỏ lời."

-- "Đó là ngày phán xét cuối cùng," Thượng đế khối Trung Đông vội vã nói.

-- "Đây là điều kinh thánh của tôi nói trước, ai mà không biết!" Thượng đế Do Thái cắt ngang. "Vấn đề trọng tâm, như Thượng đế chủ tọa nói, là làm thế nào để biến nó thành hiện thực," Thượng đế Do Thái nói thêm.

-- "Đây là công việc mà tôi đã lưu tâm hơn 50 năm nay, kể từ Ấn Độ thoát khỏi ách thống trị của Anh và chia Pakistan thành một nước độc lập trên bản đồ thế giới," Thượng đế Trung Đông phân trần. "Khi Pakistan hiện hữu như một nước độc lập, tôi đã không ngừng kích động thiên hạ của tôi ở nước này gây chiến với Ấn Độ." Thượng đế này kể chi tiết, "Từ một trận Saichen đẩm máu vào năm 1960 cho đến cuộc chiến Kargil vào tháng 6 năm 1999 vừa qua, tôi gần thành công trong việc kích hai nước này sử dụng bom hạt nhân để tiêu hủy nhau. Nhưng nỗ lực này đã thất bại, do Pakistan không được sự ủng hộ của Mỹ và khối G-8 và Ấn Độ lại bận rộn trong cuộc bầu cử." "Tôi đành bất lực!" Thượng đế này than vãn.

-- "Nỗ lực đó có chi đâu mà nói!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem so sánh. "Chắc qúi vị vẫn còn nhớ thế chiến thứ hai, tôi đã hỗ trợ đắc lực cho con chiên của tôi ở Đức và Ý, và ngoài ra, tôi còn phối hợp nhịp nhàng với Thượng đế xứ Thần Đạo, gây chiến tranh đẩm máu trên toàn cầu." Nhưng rồi chuyện không đi đến đâu," Thượng đế thành Gia-du-xa-lem nuối tiếc, "Mỹ chỉ dội hạt nhân vào xứ Thần Đạo, rồi ba cường quốc này bị quân đội đồng minh đánh bại tan tành!"

-- "Bại là phải!" Thượng đế Trung Quốc nói, "thời điểm đó đã đến năm 2000 đâu mà nỗ lực hết mình!" Thượng đế này trách nhẹ. "Kinh thánh của tôi không hề nói đến chuyện tận thế, do đó, tôi không muốn tham gia bàn kế sách biến nó thành hiện thực," Thượng đế Trung Quốc lánh né vấn đề một cách không ngoan.

-- "Chúng ta phải bắt mồi từ xa chứ!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem biện hộ. "Gần đây," ông kể, "Tôi muốn làm lớn chuyện ở Kosovo. Mỹ nhún tay tiếp và rồi như quý đồng nghiệp thấy, tôi đã không thành công!" Thượng đế này dẫn chứng thêm, "Và một lần vào mấy năm trước, tôi đã kích Iraq đánh chiếm Cô-quét và thả bơm hạt nhân vào nước này, nhưng Mỹ lại can thiệp và phá đám. Các khoa học gia nước này đã phá hủy các bom hạt nhân của Iraq trên không trung và đã cấm vận nước này làm cho khối Hồi giáo không dám ủng hộ Iraq." Thượng đế này kết luận một cách chán chường, "Cũng lại Mỹ chọt gậy bánh xe nữa!"

-- "Đáng đời lắm!" Thượng đế khối Trung Đông cười chọc tức. "Nếu anh cầu viện tôi lúc đó thì mọi việc đã xong rồi." Ông buông nhẹ thêm một câu, "Trung Đông là xứ sở cai trị của tôi chứ đâu phải của ông!"

-- "Sao quý vị lại cãi vã với nhau!" Thượng đế chủ tọa can. "Chúng ta họp là để bàn giải pháp chứ đâu phải để giành công và cãi lộn," Thượng đế chủ tọa không quên nhắc nhở.

-- "Dễ thôi," Thượng đế thành Gia-du-xa-lem nói. "Quý Thượng đế đồng nghiệp hãy cố gắng xúi giục thiên hạ của mình gây chiến với nhau và cuộc gây chiến này sẽ dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba. Lúc đó, thì quả địa cầu này chỉ còn là mãnh vụn của bụi mù pha với màu máu!" Thượng đế này nói một cách tự tin và tâm đắc.

-- "Nhưng thời gian còn quá ít làm sao chúng ta có thể thành công?" Thượng đế Do Thái chất vấn. "Hiện nay, hội đồng bảo an liên hiệp quốc có đến ba nhóm. Ba nhóm đều phá kế hoạch và quyết định của nhau. Nhóm này đồng ý thì nhóm kia chống kịch liệt. Làm sao lấy được biểu quyết của đa số?" Thượng đế này phân trần nỗi khó khăn.

-- "Đúng, đúng!" Các Thượng đế đồng nghiệp đều chắc lưỡi và gật đầu suy nghĩ. "Làm sao bây giờ?" Một vị Thượng đế chợt lên tiếng.

-- "Không sao, tôi đã có cách!" Thượng đế thành Gia-du-xa-lem vui vẻ nói. "Chủ chăn của tôi dưới thế có đến hàng ngàn tiến sĩ giỏi, làm việc dưới trướng. Tôi sẽ bảo vị chủ chăn ra lệnh các vị tiến sĩ này tạo nên môn "giải thích học" để lý giải sự cố tận thế năm 2000, theo cách thức lý giải sự cố Y2K của máy vi tính vậy."

-- "Nghĩa là làm sao, chúng tôi không hiểu!" các Thượng đế khác ngạc nhiên hỏi.

-- "Nghĩa là giải thích chữ "tận thế" theo nghĩa biểu tượng triết lý, chứ không theo nghĩa đen của từ: thế là đời, tận là chấm dứt, là bị hủy diệt hết," vị Thượng đế thành Gia-du-xa-lem giải thích cặn kẽ.

-- "Có lý đấy!" Thượng đế chủ tọa nói. "Tôi được mệnh danh là đấng đã tạo dựng nên thế giới, đấng duy trì thế giới và đấng hủy diệt thế giới. Nếu ta không muốn hủy diệt thì thế giới vẫn còn nằm trong sự bao bọc và duy trì của ta. Sự cố năm 2000 cũng vậy," Thượng đế chủ tọa tâm đắc vô cùng.

-- "Như vậy tất cả món hời của cuộc giải mã ý nghĩa "Tận thế" thuộc về món hời của ông sao!" các vị Thượng đế đồng thanh lên tiếng.
Chuyện bàn cãi không đi đến đâu, bổng văng vẳng từ ngoài vọng vào là tiếng của một vị Thượng đế địa phương:

-- "Kế hoạch non như vậy làm sao thành công được." Ông đắc chí nói tiếp với một giọng khêu khích và chọc tức, "Có gì đâu, nếu kế hoạch tận thế không xong, thì các anh phải tự sát trước chứ!"

-- "Bắt anh ấy lại!" Thượng đế chủ tọa và thư ký ra lệnh.

Các Thượng đế xúm chạy ra khỏi phòng họp, nhào tới vị Thượng đế địa phương nhỏ bé, chụp lấy ông rồi đánh túi bụi. Trong cơn đau đớn, vị Thượng đế này đã bấm nút "mìn tự sát" trong người ông. Một tiếng nổ khốc liệt vang lên, rung chuyển cả địa cầu. Các vị Thượng đế dự họp trong phòng chết tan xác. Các Thượng đế địa phương không được dự họp, một số cũng bị chết, số còn lại chạy trốn để khỏi bị truy án can hệ.

Rồi năm 2000 trôi qua trong bình yên!

Sự kiện tận thế đã chấm dứt!

Nguồn: Buddhismtoday

Được bạn: TSAH đưa lên
vào ngày: 17 tháng 7 năm 2004
<Trên vnthuquan.net>