Căn
nguyên tình yêu
Nhiều nền văn minh cho đến
bây giờ mà chúng ta được biết chỉ hơn kém vào khoản mười ngàn năm nay, thậm chí
kể đến thời kỳ người Cromagnons hay Néantherdans cũng chỉ trên dưới hai chục
ngàn năm, tức vẫn còn trong thời kỳ đồ đá mới.
Nhưng
có một nền văm mimh cổ đại hơn cả lại xuất hiện đã hơn 40 ngàn năm rồi. Đó là
nền văn minh Polynésie, một quần đảo nhỏ nằm trên vùng cực nam Thái Bình Dương.
Đó là nền văn minh của người Mélanésiens mà di chỉ trống đồng của họ rãi từ đó
ra khắp Đông Nam Á. Và di chỉ văn hóa phi vật lý khá ấn tượng của họ là hệ
thống Kinh Thánh ăn đậm vào nhân loại đến nổi gần như đọc Kinh Thánh nào cũng
như Kinh Thánh nào. Chuyện thần thoại của người Mèo ở thượng du bắc bộ Việt Nam
có khác nào kinh Cựu Ước của người Do Thái? Cũng lấy đất sét nặn ra muôn loài,
cũng có tháp Babel bị phá sập vì cái tội leo trèo của con người, cũng có lụt
hồng thủy giết sạch sành sanh để trừng phạt con người ăn ở vô đạo như cầm thú.
Nhất là chuyện nhân loại được nặn ra từ đất sét chẳng khác Prométhée lấy đất
sét nặn ra con người. Mỗi nơi một cách kể. Người Mélanésiens kể như vầy:
Từ thuở hồng hoang đã có mẹ đất Papa
và cha trời Rangi luyến ái nhau mà có sự sống xuất hiện (1). Và các Ngài cũng
muốn sự sống luyến ái nhau mà lưu truyền giống nòi. Mỗi sự sống Ngài tạo một
cách riêng. Con người, giống loài sinh sau đẻ muộn nhất được làm ra từ đất.
Khi ấy mặc đất còn ẩm ướt, đất còn nhão và
Ngài lấy một nắm nặn ra con người đầu tiên. Cũng theo hình ảnh của các Ngài,
Ngài nắn thành hai con người. Công trình của Ngài sắp hoàn tất, và Ngài muốn
công trình sau cùng này thật hoàn hảo nên Ngài hà hơi sự sống vào để xem cách
thức nó sinh động mà biết cần phải gắn vào đâu chổ cần thiết cái nhúm đất còn
lại cho hoàn chỉnh. Trong lúc Ngài đang ngắm nghía cái công trình tuyệt hảo ưng
ý nhất này của Ngài thì một trong hai nhân vật ấy hai tay nhanh như chớp chộp ngay hai nắm đất và khum
tay ịn vào phía trước thân thể mình. Nhân vật thứ hai thấy vậy bèn vội vàng vói
một tay ra vét chút đất cỏn con còn lại và ghim ngay vào chổ đang thuận tay
buông thỏng mà chưa kịp nâng lên cao hơn.
Nhân vật thứ nhất thấy người kia lấy
hết không còn gì nữa bèn kiện với Papa đòi người kia phải trả cho mình cái phần
còn lại sau hết đó. Rangi và Papa phân xử nhưng người thứ nhất ấy nằn nặc đòi,
liên tục kêu gào cho bèn được. Papa và Rangi
phải dàn xếp với người thứ hai chia bớt lại cho người thứ nhất ấy chút
đỉnh để mua sự bình an. Người thứ hai cũng không vừa gì, khiếu nại rằng nó lấy
tới hai nắm to, còn tôi vét chưa đầy một nắm tay, đáng lẽ nó phải chia cho tôi
chứ sao tôi phải chia cho nó. Cuộc điều đình cứ càng lúc càng căng, dằng dai
mãi…cho đến khi cặp mắt người thứ nhất bắt đầu chảy nước…và nước mắt lăng trên
má! Người thứ hai thấy vậy cũng bắt đầu dịu giọng. Thấy người thứ hai có vẻ mũi
lòng, tình thế như xoay chiều thậu lợi cho cuộc điều đình nên Papa và Rangi tấn
công đòn tâm lý sau cùng với người thứ hai rằng, ngươi có muốn yên ổn thì nên
nhường bớt cho nó đi chứ nó cứ nói hoài nói mãi có chịu nổi không? Lời cảnh
tĩnh có vẻ hợp lý, nên người thứ hai cũng ưng thuận.
Thế là Rangi Cha Trời bảo người thứ
hai đứng sát vào người thứ nhất cho nó lút cái kia vào rồi Ngài sẽ cưa đôi.
Người thứ hai làm theo hướng dẫn đó; nhưng Cha Trời mới vừa đưa cưa vào chưa
kịp cưa thì người thứ hai vì tiếc rẽ nên liền rút ra không chịu cho cưa. Thế là
Mẹ Đất phải nhiều lời khuyên nhủ nữa, khuyến khích nữa người ấy mới chịu thực
hiện lại việc chia của này. Cha Trời cũng mới vừa đưa cưa vào thì nó cũng lại
rút ra. Lần này thì Cha Trời, Mẹ Đất cũng đành bó tay vì nó khăng khăng trả lời
dứt khoát không chịu để mất dù một chút mặc cho người thứ nhất dậm chân tiếc
rẽ, bất chấp lời dụ ngon dổ ngọt của Papa và Rangi. Cuộc điều đình thất bại.
Việc chia của bất thành. Vậy là từ ấy, con người ổn định như thế đấy.
Và Cha Tời, Mẹ Đất đặt tên cho hai
người; gọi người thứ nhất là Nữ và người thứ hai là Nam, rồi truyền cho họ mệnh
lệnh phải lưu truyền nòi giống. Họ vui vẻ nhận lời.
Khi Cha Trời Mẹ Đất đi rồi, hai
người lại hục hặc nhau cũng vì cái chút đất của bên kia và của bên này. Họ lại
cải vã. Bên này bảo đáng lẽ cái kia là của mình, và bên nọ lại nói đúng ra cái
đó là của mình. Không chỉ họ nói bằng lời mà họ còn hành động nữa. Người này
đưa tay qua chụp cái bên kia dành lại, người nọ vói tay qua kéo cái đó về cho
mình. Cứ thế họ dằng co. Họ thử nhiều lần. Và họ biết bất quá cũng chỉ có sờ
được thôi chứ không lấy được nên họ cũng không còn cố tình quyết liệt giựt cho
bằng được như những lần thử nghiệm đầu nữa. Cứ lâu lâu nhớ trực lại, lại tiếc
rẽ…lại rình cơ hội sơ ý của bên kia; bên này đưa tay chộp lấy. Họ vờn nhau như
thế. Không được gì, nhưng ít ra cũng chạm được cái mà mình tưởng là của mình.
Tay thì được hưởng cái cảm giác như được của
mất: hồi hộp và sung sướng! còn lòng thì hoan hỉ nghĩ rằng của mình còn
đây! Mãi rồi thành cố tật. Ăn quen, nhịn không quen là vậy.
Mà cứ mỗi lần họ định cướp của
nhau như thế, bàn tay họ vừa sờ cái bên kia thì hình như có một mãnh lực nào
làm cho lòng họ xao xuyến. Mỗi lần như thế, chỉ sờ được của bên kia thôi thì họ
có cái cảm tưởng như là sờ của chính mình vậy và cảm thấy lâng lâng một cảm
giác xôn xao hoan hỉ. Riết rồi họ xem như cái của bên kia chính là cái của
mình. Cho nên mỗi khi họ nắm được cái kia trong tay họ, họ đều thốt ra lời âu
yếm “mình ơi! mình ơi!” bằng cử chỉ nựng nịu, tưng tiu triều mến và khi ấy lòng
họ đầy hoan lạc. Nhưng người Nữ không bao giờ quên nhắc nhở người Nam rằng cái
dấu ấn kia, chính xác là cái vết thương ấy nó vẫn tươi cho đến ngày nay, là do
lỗi của người Nam thậm thò thậm thụt rồi lại nuốt lời mới ra nông nổi ấy, cho
nên đòi ngưới đàn ông phải chịu hoàn toàn trách nhiệm mỗi khi viếng thăm nó.
Không ngoa! Quả là người đàn ông
đi kiếm, đi tìm chẳng những là thăm viếng mà để an ủi vết thương - chính là ấn
tích của mình – một phần trách nhiệm lưu dấu.
Rồi từ đó, họ mặc nhiên công nhận
cho nhau.
Cũng từ đó, họ không còn coi cái
đó là của riêng mình nữa.
Khi ý niệm ấy đã trở thành minh
nhiên thì cũng là lúc họ lập ra giao ước: “giữ
gìn cho nhau”; nghĩa là mình giữ là
giữ cho bên kia. Cả hai ý thức rằng “của”
là của bên kia, mình chỉ có bổn phận bảo quản thôi. Quyền sử dụng đã thuộc về
bên kia và không phải là của riêng chính mình nữa. Vì thế, một khi mình tự hưởng dụng cái của mình, ấy là
gian lận, nghĩa là vi phạm giao ước – xem như một hình thức lén lút bội ước
- nên bị lên án.
Cũng từ đó, họ gọi nhau là “mình” để xác nhận sự hiện hữu của mình –
dầu là hiện vật nhỏ nhưng giá trị cao, vì cả hai đều công nhận là của quí - đang hiện diện ở bên kia.
Và từ đó, sự ràng buộc nghĩa vụ
được xem là sự gắn bó tự nhiên.
Dần rồi cái chuyện “viếng của” đó trở thành nghi thức.
“Viếng Của” là nghi thức mở đầu, và “Trao Của” là nghi lễ kết thúc.
Nghi thức Trao Của được xem như là một nghi lễ trả của là trách nhiệm và bổn phận của người đàn ông phải
thực hiện vì nuốt lời ở những lần lừng khừng đổi ý đầu tiên nên phải trả lại
cho bên kia cái gì thuộc về bên kia theo như sự ưng thuận lúc ban đầu. Và ý
niệm công bằng phát sinh từ đó. Từ đó “công
bằng” có nghĩa là cái gì không phải
của mình phải trả lại cho người sở hữu.
Nghi lễ trao của lập
lại cái động tác ban đầu lúc Cha Trời bảo người Nam đưa cái của người Nam cho
lún phập sâu vào người Nữ. Nghi lễ này nhắc nhở người Nam nhìn nhận cái này là
của người Nữ và người Nữ phải đưa hai cái kia cho người Nam nắm giữ để xác nhận
cái của ấy thuộc quyền sử dụng của người Nam. Nghi lễ hừng hực hiến dâng này là
xác nhận mối tương giao bình đẳng, tương đồng cảm xúc: cả hai bên đều có lợi!
Mỗi khi lập lại nghi thức ấy, người
Nam cũng làm cái hành tác giống y như
lúc ban đầu; nghĩa là đưa vào rồi lại rút ra, rồi lại đưa vào rút ra tượng
trương việc trả lại tài sản cho người Nữ và cũng không quên trả luôn cái phần lời mà cái của người
Nam sinh lợi. Chính cái phần lời đó làm
thành cái hoan lạc cho cả hai: người Nữ hoan hỉ do được hưởng lợi nhuận,
còn người Nam thì sung sướng vì đã làm xong một nghĩa vụ công bằng.
Cái cảm giác lâng lâng của nghi thức mở đầu cũng như cái cảm xúc
hoan lạc của nghi lễ kết thúc đã tạo
nên cái xúc cảm luyến lưu gắn bó không thể chia lìa của đôi Nam-Nữ định hình
thành “ý thức hợp nhất” gọi là TÌNH
YÊU.
Và từ đó, luyến ái được xem như
nghi thức nhìn nhận giá trị thân xác trong tình yêu.
Và tình yêu là phần thưởng vô giá của
nhiệm vụ lưu truyền nòi giống.
Và con người mang hình ảnh Cha Trời
Rangi và Mẹ Đất Papa trong cuộc luyến ái nhau mà có sự sống xuất hiện – con
người truyền sinh.
========
@-(1):[Doãn
Quốc Sỹ-Thần Thoại C: “Thần Thoại Pôlinêsia”- Sáng Tạo xb.-Saigon]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét