Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015



QUÁI THƠ


Tôi không dám nhận thơ mình là Quỉ Thi, vì nói về thơ, thì Quỉ cũng đồng Tiên – Thánh - Phật!

Để kính Lý Hạ - Thơ Người đã thành Quỉ Thi - nên tôi gọi thơ mình là thơ quái.

Thơ tôi không được gọi là Thi, mà chỉ là Thơ; để ai đó có nghịch thì chỉ gọi là thơ quỉ chứ không gọi là quỉ thi.

Giữ huý cũng là lễ vậy!



- Chó thì có Má

                          - Người thì có Ngợm

                                                             - Quỉ thì có Quái .

                   Đọc thơ quái

                                         để hay rằng

                                                             có quái thơ!



¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤

không đề


1.- Người làm thơ phản ánh,

     Ta làm thơ phản ảnh

                                 Chảnh!


2.- Rằng xưa có gã từ quan

     lên non tìm động hoa vàng ngủ say. (Phạm Thiên Thư)


     Rằng nay có gã từ dân

     lên dinh, vào điện say sưa mộng vàng!


3.- Quan nhất thời

     Dân vạn đại

     Ta dại ta làm dân!


4.- Cái cây đu đủ

     Cái thằng đu đu

    Gãy cành đu đủ

    Chết cha thằng ngu

    Chết mẹ thằng mù

    Tuốt luốt cả lũ!



1. NHỎ TO TÂM SỰ


Người bé gọi là nhỏ

Người to gọi là lớn


Tiểu hay đại cũng là nhân


Mà giận cái điều:


- đứa nhỏ mọn nuốt trọn đại nhân! 



2. Cafê chồn


Con chồn ăn trái càphê

Ỉa ra cục cứt

Càphê chồn: 

- ngon ghê! 



3. Dây mắc cỡ


Trái gió…giở giời...

mưa dầm…nắng hạn…

thúi rể…

Hề…hề…

chấp cả răng!

Còn chăng…chỉ có lợi!



4. ĐÁ CHANH


Đá chanh uống cho thanh giọng


Cho thông vọng ngữ, cho thuần vong ngôn


Mà lộn dây lái dây lèo


Cho Hiếu Đạo cũng tùng phèo dây cương


- Giêsu ma!!! Giêsu ma!!!


- Ai là cha??? Ai là cha???


Đá chanh


Đánh cha


Bất hiếu


Cương thường đứt dây.


5. Kỷ niệm một năm viết blog


Phương viên mà chẳng vuông tròn.

Tai nạn còn giòn hơn cả rong chơi.


Chiếc lá chơi vơi giữa giòng...


Khi ghé bến đục...lúc vào bến trong.


Dập dềnh trên sóng long đong


Sóng xô mặc sóng...

...ta vẫn thong dong giữa giòng!


Không chờ...không đợi...không mong...


Trời yên...bể lặng...


Vẫn an tấm lòng! 



6. Của tam bảo



Vào non nước động


sờ đôi thạch nhũ


nhớ lời Thích Ca:


“Của Tam Bảo,


để làm gì chẳng bóp!”


Cadao:

“ Sáng trăng vằng vặc

Vác cặc đi chơi

Gặp đàn vịt trời

Giương cung anh bắn.

Gặp cô yếm thắm

Đội gạo lên chùa

Thò tay bóp vú…


“Khoan khoan tay chú!

Đỗ thúng gạo tôi…”



Hôm nay ba mươi

Mai là mồng một.

Đội gạo lên chùa cúng Bụt,

Bụt ngoảnh mặt đi…

Ông Thích Ca mỉm miệng cười khì:

“Của Tam Bảo, để làm gì chẳng bóp!”

( TỤC NGỮ CA DAO VIỆT NAM – tr.146-147 – VŨ NGỌC PHAN –

                                                   Khoa Học Xã Hội xb.HÀ NỘI – 1997 )


7. Tưởng niệm BÙI GIÁNG


Nhớ ông:

"Saigon - Chợ lớn rong chơi

đi lên đi xuống
đã đời du côn." [BG]

[ Kỷ niệm Giỗ - ngày 07-10-1998 ]

Bao năm 


ông: 


"Bỏ trăng gió lại cho đời 

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa" 



Bỏ cả rong rêu lại chốn ta bà


Bỏ trăng tỳ hải...đi về ngã ba 


Đến nơi cố quận...hết đời du côn. 


Mà ngủ quên trên lá hoa cồn...thiên thu!

oooOooo

                      Bàn giấm…
                                         Bàn giúi…


                                            Chuyện ông lê gót đi tìm…



Lãng du!



8. Tế Khuất Nguyên


Mịch La cuồng nộ ba đào


Ly Tao vang vọng thi hào nghìn thu


Mà nay Đoan Ngọ lập ngày


Diệt loài sâu bọ


-Tế Người năm xưa! 


9. TIẾN SĨ KHÔNG HỌC



Đêm ấy là cái đêm gì???



Cái đêm phó tiến sĩ…li bì cơn say.


Say giấc kê vàng…say giấc mơ hoa!!!


Sáng ra


…bừng con mắt


…ậy


…tiến sĩ đây.
Cần chi học…
Cần chi lớp…
Cần chi thầy!!!



Cần gì luận án…
Cần gì luận văn…
Cần gì cái mới mà vặn vẹo nhau chi!!!



Người thi…người học…bằng cũng bằng giấy!


Không học…không thi…ta cũng có giấy làm bằng!


Hai ta cũng bằng nhau…toàn bằng giấy!!!


Giấy má


…ừ má! ừ má!


...ừ má đấy!

Cũng cùng đồ mã



...cúng đồ ma...!!! 



10. Theo giòng văn…tục


Thôn Bù nằm cạnh Làng Môn


Làng Môn đi đến Thôn Bù


Thôn Bù về lại Làng Môn


Bên lề môn mọc: là môn của làng!


Ai mua môn, tôi bán môn cho


Môn còn nằm im bền lề cỏ đợi chờ!


Môn lùm tôi cho:


đem ra chốn chợ trời bán buôn!


Môn làng tôi bán: 


- xách ra vỉa hè khoe mẽ lập đàn văng tục khè nhau mặc tình bán rao!

Chào!



11. THÂN PHẬN TRÍ THỨC



Trí thức không dùng 


- trí thức đùng đùng bỏ dông.


Gặp mợ 


- mợ bảo chợ vẫn đông ồn ào



- hàng tôm, hàng cá lao xao!


- cả anh hàng thịt cũng tay đao hầm hầm!


Ngẫm mà nghĩ lại ca dao:


Gỗ thì để người ta dùng 


Trí thức cũng cùng chủng loại hay sao?


Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế nào!


Anh hào chứ phải ả đào mà lụa nhung?




12. CÓ THỰC MỚI VỰC ĐƯỢC ĐẠO


Không ăn...không đạo là thường


Có ăn...có đạo mới là cao siêu


Theo đạo đâu phải theo liều!

Lấy tôm đổi tép...tom nhiều mới khôn



Lấy ăn vực đạo là môn


Đốn ngộ lập tức...khôn liền một khi


Chứ không phải lấy chân, lấy thực


mà xây đạo bình thường nhân luân


Đạo nhân luân, đạo thường thường


Mới cầu cái thực


để vực đạo con người


thành nhân! 




13. VÔ THƯỜNG



Cúc 

em cài...



hờ... hững...


anh 


lững... thửng...


hớp làn dư hương


mà thương 


chút 


vô thường 


gió …


bay…! 



14. GIÁC NGỘ  I



Yêu em


Anh muốn tặng cả cuộc tình


Nhưng còn ngại cái điều vô minh


Cho anh xin rút lại chuyện chúng mình


nghe em!




GIÁC NGỘ  II



Dây oan em muốn buột 


Sợi tình em muốn se


Thờ Cha Kính Mẹ


Chuyện chúng mình


nghe anh! 



GIÁC NGỘ  III


Biết tu là cội phúc


Tơ lòng vẫn mong manh...


tại ngã ba... 


lòng lại không đành! 


15. Khai Bút đầu năm



Bắt chước ai (*) ta chúc mấy lời 


Chúc cho dân nước bớt kêu trời


Thôi đừng khóc đất, than thân nữa


Kệ đứa ”thương dân” cứ rữa lời




Chuyện đời vôi bạc chi hà cố

Lá ba bài, cái thứ trò chơi



Sá gì giá áo túi cơm nô


Chẳng qua cũng chỉ cái trò đời




Chúc cho phường săn bẩy được hời


Thỏ ngọc, nai vàng mắc lưới rong


Lớn bé, nhỏ to tom vào rọ


Kiếm chút công lừa tí tiền nong




Chúc cho làng chài bủa lưới vây


Cào tôm, vét tép, mót lòng tong


Gôm được mẻ nào hay mẻ đó


Đuôi lòi…mặt nạ…tỏng tòng tong!



*****



(*) “Chúc Tết” của Trần Tế Xương


16. . Con bài Domino

Khi muốn vào thì bảo

Domino...con bài chặn

Lúc rút ra

dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc

rằng cuộc chơi

đã hết thời diệu dụng!!!

Đụng phải cái điếm mồm

Va nhằm cái đĩ miệng

hơn cái đĩ đít

hít cái đĩ trôn

thơm hơn lồn thúi

ba mươi ngày không rửa!

Ngứa ngáy chạy vòng quanh

Xoành xoạch xoay xoay trục

Rục rịch đến đâu Tàu chửi đến đó

Trốn quanh Biển Đông mặt không dám ló

Như chó núp gầm chạn

Thân ở rể rõ chán!

Được cái giỏi: chịu đấm ăn xôi

Thị trường một tỷ ba hôi cũng đặng

Được ăn

Thì ăn cho mặn

Ai khát nước

Nó trất cược biết đến ngày mai




17. Chỉ mặt đặt tên



50 năm lầu xanh...nhà trắng




Làm đĩ chín nơi


Còn nơi gã chốn Cờ Hoa



Rạng danh dòng tộc



Xứng đáng gia bộc



Dương... Dương... tự đắc!



Bổng lộc bơ thừa...sữa cặn...



Vẹn tình ăn nhờ



Trọn nghĩa ở đậu



Hậu duệ con cháu



Dư bôm...thừa cam...cúng giỗ!



Rỡ ràng tổ tiên!



Sử biên niên...ngàn năm còn kể!




Chữ O tròn vO




Đầu tiên...ở điểm bắt đầu.



Khởi sự ở điểm dạ sâu: - dồi trường!



Hết đường...màng hạ...tròn vO!



Chữ O khép lại...vai trò gia nô!




Cái nhà




Cái nhà là nhà của ta



USAID...USOM lập ra



Cháu con phải gìn giữ lấy



Công cha "cõng rắn về cắn gà nhà"


000O000

18. Point out the face to name



50 years brothel…white house




Prostitute nine places



Once more mary off to Stars Flag



Honour for the lieage



Worthy of domestic servant 



Duong…Duong…proud of !



Wage is spare butter…dregs of milk 



Perfect of love to live at the expense 



Complete loyal servant to stay temporarity



Future generations grandchildren 



Lelf over apples…superabundant oranges 



for ancestors anniverary



Briant forefathers!



Chronicle…thousand years…still tell stories!





Letter O's a real round circle



At first ... in the beginning


Starting by nastyheart ... as anus!


The end ... curtain down ... be round!


Letter O was closed ... shows up the domestic servant role in slavery!



The House



The house’s home wich’s ours



It's made by Usaid...Usom



Great grandchildren must preserve 



It's father's merit "to bring the enemy home"





Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

II.1 Bảy mươi nữ thiên  thần


Các môn đồ hỏi tiên tri Mahomet:
Trong Kinh Coran, Đấng Allah chỉ cho có bốn vợ, sao thầy có tới 14 vợ lận?”

Tiên tri Mahomet nói: “14 chỉ bằng hai lần 7 mà thôi.
Giữa Thiên Đàng và Thế Gian cách xa như trời và đất
14 vợ ở thế gian làm sao so sánh với 70 nữ thiên thần trênThiên Đàng được!

Ta đã nhận ở thế gian rồi thì ta chịu thiệt khi lên Thiên Đàng vậy

Ta đã hy sinh!

Các ngươi hãy ráng nhịn rồi sẽ được đền bù xứng đáng…hạnh phúc hơn cả ta đó.”

Các môn đồ: “Chúng con sẽ nghe theo thầy…không làm theo thầy…
để được hưởng 70 nữ thiên thần thơm tho khi về với Allah.”

“Nhưng thưa thầy, thầy đã lên trên ấy rồi, cho chúng con được tò mò tí xíu”:

“thầy thấy các nữ thiên thần trên ấy thế nào?”

“Các nữ thiên thần toàn là ma-nơ-canh không à!”

* Mời xem Video:
https://www.youtube.com/watch?v=aaQzdsFwUYU
II.2 Chuyện giếng nước Samari

 Trên đường lìa xứ Giuđê trở về xứ Galilê, phải đi qua xứ Samari.

Nhơn đi đàng mỏi mệt, vừa gặp một giếng nước,
Đức Jésus cùng các môn đệ dừng chân nghỉ ngơ.

Nhân lúc ấy có một người đàn bà Samari đến múc nước, Ngài phán :  “Hãy cho ta uống” [Tân Ước – Giăng – 4:7]

Người đàn bà Samari thưa rằng:
-" Ủa kia! ông là người Giuđa mà lại xin uống nước cùng tôi là người Samari sao?
 (Số là, dân Giuđa chẳng hề giao thiệp với dân Samari. - Giăng – 4:9)

Đức Jésus đáp rằng:"Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi;
nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa[Giăng. 4:13]

Nghe thế, người đàn bà bèn thưa:"Thưa Ngài, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa" [Giăng 4:15]

Người đàn bà mừng rỡ bỏ vò lại và đưa Đức Jésus về nhà mình để Ngài ban cho thứ nước ấy.

Đến nhà, người đàn bà bẩm:
-        Thưa Ngài, xin Ngài ban cho chúng tôi nước của Ngài để tôi ngày ngày khỏi đi xa lấy nước cực khổ nữa.

Đức Jésus đáp:
-        "Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời“ [Giăng - 4:14]

Người đàn bà nài nỉ:
- Xin Ngài ban cho ngay để chúng tôi có nước dùng ngay trong ngày hôm nay.

Đức Jésus bảo: Nước ta là Nước Sự Sống Đời Đời,
là Nước Trời chứ không phải là nước uống hàng ngày.

Muốn có nước uống hàng ngày thì hãy ra giếng múc.

Người đàn bà Samari nuốt xong miếng nước miếng:

-        Mẹ! Công toi một ngày!

* Mời xem Video:
https://www.youtube.com/watch?v=6rcML5NYvUo
II.3 Niêm hoa vi tiếu


Đức Phật hỏi Ca Diếp: -“Hoa đẹp ta cầm một đóa chơi…can cớ chi ngươi tủm tĩm cười?”

Ca Diếp trả lời: “Thưa Như Lai, khi Như Lai đưa ra cành hoa…nó xuất hiện trước mắt con…làm con nhớ đến bài giảng về Thiền của Như Lai nên con không nín cười được.”

Đức Phật: “Bài giảng về Thiền của ta liên quan gì đến một cành hoa?”

Ca Diếp: “Như Lai nói  rằng:
- “Ta thấy thánh đạo của những kẻ thông sáng
như những đóa hoa xuất hiện trước mắt một người.”

Đức Phật: “Thế thì sao…?”

Ca Diếp: “Đóa hoa Như Lai đưa ra trước mắt chúng con…con xem như một thánh đạo…
Vì con liễu được ý của Như Lai nên con không nhịn cười được…”

Đức Phật: “Thánh đạo đẹp như một cành hoa…
không phải sao? Vậy sao ngươi cười?

Ca Diếp: “Dạ, hoa thì đẹp thật…nhưng sớm nở…tối tàn…nên con cười cho cái vô duyên của một cành hoa…
…cười cho cái vô thường của thánh đạo…”

Đức Phật: “Vô thường là chuyện bình thường…có gì đáng cười!”

Ca Diếp: - Dạ vâng ạ, vô thường là bình thường thôi.

Con thấy “những giáo lý của thế gian là những ảo thuật của những tên phù thủy.”

Con thấy rõ “tư tưởng cao siêu của sự giải thoát như một miếng nhung vàng trong giấc mộng”

“ và thấy thánh đạo của những kẻ thông sáng như
hững đóa hoa xuất hiện trước mắt một người ”

Con “xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao”
và Niết bàn là cơn mộng du giữa ban ngày!”

[Thiền sư MUJU “Góp Nhặt Cát Đá” tr.115-116 – Lá Bối 1972]

Cho nên con mắc cười cho cái vô duyên của một cành hoa!

Đức Phật:  Hảo ! Hảo ! “Thôi được…lại đây ta trao y bát…cho chú long đong suốt một đời!” [Viên Linh]

¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤
Vào thời kỳ Nam Bắc triều (giữa thế kỷ V – VI), Phật giáo Trung Quốc bắt đầu có những trứ tác tự thuật về những “Pháp thống”. Đến thời Tùy Đường (589-907) các tông phái Phật giáo hưng khởi, lợi dụng cái quan niệm “Pháp thống” đương thời mà biên soạn riêng “Pháp hệ” để dương danh sự truyền thừa Chánh pháp Phật của tông phái mình.

Dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền, kỳ thật đó cũng là nét đặc thù của “phán giáo” và “lập tông” của Thiền Đốn Ngộ vậy.
Vây quanh việc truyền tâm ấn Phật, Thiền tông đã ghi chép rất nhiều câu chuyện Thiền thật sinh động (ngữ lục), thậm chí còn biên tạo Phật kinh để chứng thuyết Thiền, như chuyện “Niêm hoa vi tiếu”. Chính mắt Vương An Thạch (1021-1087) đọc được trong kinh “Đại Phạn Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi kinh”, nhưng căn cứ theo các nghiên cứu của các học giả từ trước đến nay đều cho rằng đó là hoàn toàn do người sau biên tạo.

“Như Lai niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”: chúng ta nhận thấy nó gần với lời của Trang Tử (Đạo gia) từng nói: “Mạc nghịch vu tâm, tương thị nhi tiếu” (không trái trong tâm, nhìn nhau mà cười), do đó thiền tông rất hân nhiên chấn phát tông môn y cứ theo truyền thuyết thần kỳ này của Thiền tông vậy.

http://www.giacngo.vn/phathoc/thientong/2008/05/29/565613/

* Mời xem Video: 
https://www.youtube.com/watch?v=TZwBC6U5524
II.4 Cuộc thẩm vấn đầu tiên



Đức Yehova: Thị Eva kia nghe cho rõ:
- Khi hái trái cây đó Thị làm là do tự nguyện hay bị ép buộc?

- Dạ, con bị con rắn mà Ngài cho làm bạn nó quyến dụ; nó bảo rằng Ngài nói thế chứ ăn không chết đâu.

Đức Yehova: - Ngươi tin Ta hay tin con rắn?

Bà Eva: - Dạ, con tin cả hai.

Đức Yehova: - Nó là loài nói dối, ngươi không thấy cái lưỡi chẻ đôi của nó sao? Nay nó nói tả, mai nó nói hữu.
Nó thì tả-hữu bình bình, nói gì chẳng được; sao ngươi tin?

Bà Eva: - Nó bảo rằng ăn trái ấy vào…mắt mình sẽ mở ra; cho nên con hái ăn cho sáng mắt để mở trí khôn mà biết phân biệt điều lành điều dữ…như Ngài cũng bảo thế.

Đức Yehova :  Biết đều thiện điều ác là sáng mắt ra rồi đó.
Thế mới chết! Ngươi có biết không?

Bà Eva: Ngài có dặn kỹ, con biết.

Đức Yehova: Biết sao còn cố tình ăn?

Bà Eva: Ngài đặt con vào một quyết định khó khăn quá. Một sống!Hai chết! Vì thế bắt buộc con phải chọn lựa.
Và con đã chọn:Thà chết vinh, còn hơn sống nhục”.

Đức Yehova: - Nếu ngươi không ăn trái đó, ngươi có chết chăng?

Bà Eva: Dạ thưa không chết, nhưng sống nhục.

Đức Yehova:- Sống như thế sao gọi là nhục?

Bà Eva: Sống mà không phân biệt nổi đâu là thiện, đâu là ác; sao gọi là sống vinh?

Sống như thế khác nào cầm thú, sao không gọi là nhục?

* Mòi xem Video:
https://www.youtube.com/watch?v=d25z74YR8NA
II.5 Với những người đi tìm chân lý

Đức Phật dạy: “ Hỡi những người Kalamas

- Đừng để bị lôi cuốn bởi những lời thuật lại, hay bởi truyền thống, hay bởi những lời đồn.

- Đừng để bị dắt dẫn bởi uy quyền của kinh điển hay bởi luận lý suông, hay bởi suy luận hay bởi sự xét đoán bề ngoài hoặc bởi thích thú trong những quan niệm vỏ đoán, hay bởi những gì có vẻ đáng tin, hay bởi ý nghĩ:- đây là thầy ta –

Nhưng hởi Kalamas,

Khi nào các ngươi tự mình biết rằng đó là ác, sai, xấu; thì hãy dứt bỏ chúng…

- Và khi các ngươi tự mình biết rằng những gì
đó là thiện, là tốt; thì hãy chấp nhận và theo chúng”

¤ [A (Colombo – 1929) - p.115]                                       
[Nguồn: WALPOLA RAHULA - “Tư Tưởng Phật Học”-tr.4 - Thích Nữ Trí Hải dịch –
Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh - 1974 -]

¤ “Đức Phật còn đi xa hơn nữa:
Ngài bảo các tỳ kheo rằng một đệ tử cần phải xét đoán ngay cả đức Như Lai (đức Phật), để có thể hoàn toàn tin chắc giá trị vị Thầy mà mình đang theo.”
[Vimamsaka–suttra, n#47 of M] – (Nguồn đã dẫn “Tư Tưởng Phật Học”-tr.4

¤ Và Đức Phật dạy: “Ngươi là nơi nương tựa của chính mình, còn ai khác nữa có thể làm nơi nương tựa?” (Dhp. XII 4 – nguồn dẫn trên: “Tư Tưởng Phật Học”- tr2)

* Mời xem Video:
https://www.youtube.com/watch?v=ZgxE4NJOUjw