Có lẽ thật khó giải câu đố
này của Đức Đạt-Lai-Lạc-Ma XIV : “Ngứa gãi sướng hơn hay không ngứa sướng
hơn?”. Câu đố đầy thách thức!
Nhưng câu chuyện lại được kể như vầy :
“Jéhova
Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng đông, và đặt người mà
Ngài vừa dựng nên [Adam và Eva] ở đó. Jéhova Đức Chúa Trời khiến đất mọc
lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống
cùng cây biết điều thiện và
điều ác.”[STK.2,8]
“ Vả,
trong các loài thú đồng mà Jéhova Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống
quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: “Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các
ngươi không được phép ăn trái cây trong vườn sao? Người nữ đáp rằng : Chúng ta
được ăn trái các cây trong vườn, song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Đức
Chúa Trời có phán rằng : Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đã động
đến, e hai ngươi phải chết chăng. Rắn bèn nói với người nữ rằng : Hai ngươi
chẳng chết đâu; nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây
đó, mắt mình mỡ ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.”[STK.3,1-2-3-4-5]
Điều đó ĐCT xác nhận : “Này,về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài
người đã thành một bực như chúng ta.”[STK.3,22]
Nhưng chính bà Eva tiên cảm, nên quí
trái cây ấy, như Bà lý giải “vì để mỡ trí khôn”[3:6].
Ôi thôi rồi! ham mở trí – mở mắt nên mới
thấy mình lõa lồ! Từ đó, loài người bước một bước khá xa, bỏ lại đằng sau các
bằng hữu động vật của mình mà đi con đường riêng. Con đường phân biệt điều
thiện và điều ác. Con đường của lý trí. Con đường của sáng tạo. Con đường của
văn hóa. Mà chính văn hóa đã hình thành nên cái: “ phân biệt điều thiện và
điều ác ”, cái mà Vương Dương Minh gọi là “Tri thiện tri ác tức thị Lương Tri”
đó.
Nhưng với lời cảnh báo của ĐCT:“Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng
nên đả động đến, e hai ngươi phải chết chăng.” Trước thách thức trọng đại
ấy: chấp nhận? hay không chấp nhận? đưa Bà đến sự chọn lựa:
Và Bà can đảm CHỌN: “vì để mở trí
khôn”.
Và từ đó, TRÍ KHÔN có con đường để đi:
“TỰ DO”.
Vâng, ĐCT đã sinh ra cây trái ấy và đặt
vào vừa tầm tay Bà và còn cho Bà cái cảm xúc thèm thuồng với một cơn cám dỗ
không cưỡng lại được do lời dỗ dành
của con rắn là loài khôn ngoan mà cũng chính Ngài đã mang đến cho làm bạn với
Bà.
Chính cây trái đó, chính vị ngon ngọt
của trái cây đã mở mắt, mở trí cho Ông Bà nhận biết điều phải điều trái, điều
đúng điều sai, cái thị cái phi, cái thiện cái ác.
Nhưng ĐCT không gài, không cưỡng bách,
không thử thách; mà để ban cho Bà một đặc ân: TRÍ KHÔN! và trao cho Bà cái
quyền: TỰ DO!
So với các chủng loài khác, loài người
thiếu nhiều may mắn : khả năng tự vệ và tấn công kém, tài thoát nạn thua xa các
bằng hữu, cơ may sống còn trong thiên nhiên thật mong manh. Thế vậy mà loài
người sống mãnh liệt nhất, lại chiếm ưu thế thượng phong, còn nhảy lên hàng
thống trị muôn loài. Tình thế đảo ngược ấy nằm trong ân huệ của thiên nhiên ban
tặng: bộ não! Sự cách biệt giữa chúng ta và các chủng loài khác cũng chỉ
hơn kém nhau ở bộ não ấy thôi. Chính trong họ linh trường( tay dài) – loài
người cũng bỏ xa do không ngoài bộ não của chúng ta trổi vượt hơn.
Giả như, khi ấy Bà nhát gan không dám
vói tay lên hái trái cây ấy, thì nhân loại bây giờ sao nhỉ? Chắc chắn vẫn còn
là bạn với lang trùng, hổ báo…vẫn còn lẫn vào loài chim bay, thú chạy!... đêm
ngủ vách núi, ngày hái hoa rừng, uống nước suối trong…thơ mộng thật!
Ngay chính ngụ ngôn đã giải mã qua tiên
cảm của bà Eva “quí vì để mỡ trí khôn”. Và chính trí khôn mới cho ra
những nhận biết và phân biệt điều thiện và điều ác.
Và chính nó, “cái trí khôn” ấy
lại là con dao hai lưỡi, như ĐCT phán: “Hai
ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đã động đến, e hai ngươi phải chết
chăng”
Quả là một ân sủng khó đương ! Ân huệ
càng lớn, trách nhiệm càng cao.
Loài người đã đủ khôn để sử dụng cái ân
huệ trọng đại ấy của thiên nhiên chưa ? Câu trả lời của Cadao Việtnam là: “Thế
gian còn dại chưa khôn !”.Loài người đã tận dụng cái trí khôn ấy để tàn hại
nhau khá tận tình. Và
cũng cái trí khôn ấy đã đưa nhân loại ra
khỏi vùng tăm tối…bước thêm bước nữa vào vùng sáng lạn ! Bước đi ấy, trong nhân
học gọi là bước hóa văn (esthétisation – esthétiser) = hóa văn + [esthetization -esthetizime]
Uranium, Plutonium…nếu dùng để giết nhau
thì “e phải chết chăng”.
Khôn sống! Mống chết!
Thiên nhiên không rút lại ân sủng đã ban. Loài người có trút đi cái ân sủng đó hay không là tuỳ vào sự chọn lựa của mình.
Tự thân cái ân sủng đó đã sẵn có cái
chủng tử chọn lựa rồi : hoặc THIỆN, hoặc ÁC.
Cũng từ cái lý trí ấy mà biết điều thiện
điều ác. Ẩn ngữ mà hiển nghĩa trong phép tỷ của văn chương: “ cây biết
điều thiện điều ác” là thông điệp mà người xưa gữi lại cho người sau.
Khi Bà vói tay lên hái trái cây “biết
điều thiện điều ác”, Bà đâu có ngờ: “Một lần đẵm cứt, một lần chặt chân”.
Nhưng không sao, Mẹ càng vui hơn vì từ đó mà con cháu Mẹ mới thoát khỏi cảnh
thú u ám mà nâng mình lên một bậc. Và con cháu Mẹ biết ơn Mẹ.
Đó chính là: “Anh đã đi con đường từ
giun lên làm người…”, Zarathustra nói như vậy! Và Shri Aurobindo cũng cho
biết: “ Con vật là con người giả trang
dưới bộ lông lá và đi bốn chân. Con sâu là con người đang bò vặn vẹo và trườn
về sự triển khai nhân tính của mình.” [“Apercus et
Pensées”-tr.27-Adyar-Paris-1950 (Yếu Cương và Mặc Tưởng)]
Nên một khi loài người vươn tay lên hái
“Trái Cấm” rồi thì không rút lại được
nữa vì điều khoản “bất hồi tố” của luật, cho nên – rút kinh nghiệm – “Ngài đuổi
loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin
với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường
đi đến cây sự sống.”[STK.3,24]
Dẫu “mất trâu mới làm chuồng”-
nhưng như thế vẫn chắc ăn hơn – khỏi pahỉ hối hận một lần nữa! Và từ đấy con
người mất cơ hội
Lời đã được nói ra là lời hằng sống: “Này,
về sự phân biệt điều thiện và điều ác,
loài người đã thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e
loài người giơ tay lên cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời
chăng” [STK.3,22].
Đức Chúa Trời đã cẩn thận rào dậu “Cây
Sự Sống” một cách nghiêm mật với lính canh gươm sáng chói lòa để trừ hậu
họa, thì từ đây con người chớ có mơ “được sống đời đời”! Cái viễn cảnh “bất
tử” của con người đã bặt đường đi lối về! Thì cái “Đằng Kia” (Au-de-Là) ở đâu nữa mà ước, mà vọng, mà cầu…!!!
Ngài chỉ nhở nhàng chiêu đầu nên loài
người ngày nay mới hưởng được sự sơ xuất ấy. Ấy là ân sủng!
Cái ân sủng: “ PHÂN BIỆT ĐIÊU THIỆN VÀ
ĐIỀU ÁC ” được ĐCT giả đò sơ hở lở ban đặng loài người chia xẻ cái “ LƯƠNG TRI
” cho
cùng một bậc với Ngài.
Từ đó cái Lương Tri làm thành cái
Thần Tính của Con Người , và nói một cách chính danh “Lương Tri chính là Nhân Tính”
[của con người vậy].
Con người mà mất đi cái lương tri thì sẽ
được nhân loại đồng hóa nó với súc vật.
Để cụ thể người ta nói : đồ mất nhân
tính…đồ súc vật, súc sinh….không còn là người nữa…đồ chó…trâu, bò, heo…con vật
càng tồi tệ càng được so kè với “đồ” bỉ ổi hơn…đồ rắn độc…langue de
serpent! Cette bête là!
Một chút chia xẻ từ
MDLEECHEN's blog trong Entry: "Còn
chăng một chút lương tri?..." lấy từ nguồn báo Thanh Niên 10.01.08 với
bài: "Sự bạc đãi không thể tha thứ.": câu chuyện kể về sự bạc đãi của
các con và cháu nội của bà Nài...bị đánh và tử thương. MDLEECHEN ở cuối bài đưa
ra câu hỏi:" Còn chăng một chút
lương tri?" và xin ý kiến của các bạn mình: “ Bạn ơi! Bạn nghĩ gì đây?
”. Và đây là một số suy nghĩ của bạn bè:
@PANDA: "...họ còn thua xa những
con thú...vì cái ích kỷ riêng tư của mình mà dẫm lên trên tất cả luân thường
đạo lý.- Nghỉ gì về họ ư? Là tàn ác, là cầm thú...
@VƯƠNG...: "...bây giờ trong xã hội
loài người còn có thêm những cá thể loài sói, loài cáo, loài ác quỷ tồn tại
cùng... - Không có lương tri chị ạ! vì có phải con người đâu mà có lương tri hả
chị."
@hawkw...: " Không bằng cả súc
sinh."
@NGANHA: " Không bằng cả loài cầm
thú L à! Xót xa và phẩn uất, đó là những cảm xúc đan xen trong chị khi đọc bài
viết này!!!..."
@TRANC...: " Tiền làm mờ lý trí và
thúc đẩy những đứa con trở lại làm vượn người!"
@idol o : " Đồ...súc vật, cái loại
con chó chứ đâu phải con người."
@Mdleechen: " Luân thường đạo lý
còn đâu? Súc sinh con cháu đầu trâu khác gì?"
@HK(lo...: " Đúng là không thể tả
được cảm xúc của em. " Chúng nó" mấy đứa cháu của bà Nài còn không
được bằng một con chó."
@Khucthuydu: “Như thể một sở thú vậy”
**********Chứ tiếp chiêu sau, rút kinh nghiệm! loài người mất cơ hội hằng sống đời đời.
Từ ấy…Mẹ đã quay đít lại cái vườn Eden có “cây sự sống” đang được canh giữ cẩn mật với gươm lưỡi chóa lòa…mà bước những bước đi mạnh mẽ và hân hoan với tay cầm “trái văn hóa” cùng hạt “lương tri” của nó để gây giống cho con cháu Mẹ về sau! Rồi Mẹ kể cho con cháu Mẹ nghe câu chuyện vui vui để cho hậu duệ Mẹ chớ có thèm cái đời đời trời ơi vớ vẩn hảo huyền đó nữa!!!
Chuyện kể rằng: “ Người có công an bài cuộc sống nhân gian là MAUI . Bà Mẹ Maui thuở mang thai sinh chàng thiếu tháng (+). Tin rằng đó là điềm gở, bà ném đứa con sơ sinh của mình xuống đại dương. May thay đứa bé được tổ phụ là thần Mặt Trời cứu, mang lên thiên cung nuôi nấng, dạy dỗ; đến khi khôn lớn thì vẫn cho trở về hạ giới sống với gia đình. Maui có tài biến hóa cho nên chàng quyết đi đến giới tuyến cuối cùng của nhân gian. Trên đường đi, chàng tỉ thí với vị thần nhân tổ phụ tên là Muri-Ranga, và đoạt đựợc xương quay hàm của vị tổ phụ bại trận đó làm một thứ khí giới vô địch cho mình.
Kế đó, Maui đã dùng cả uy vũ lẫn mưu cơ để đoạt được lửa của một vị tổ phụ khác tên là Mahuika ngự trị khoảng giữa miền dương thế và âm phủ.
Sau cùng, Maui quyết giúp con người thực hiện mộng trường sinh bất tử. Chàng theo đường xuống âm phủ,(@) đợi lúc vị tổ mẫu khổng lồ Hine-Te-Po ngủ say mới tự cởi hết quần áo rồi lén chui vào bụng tổ mẫu bằng đường giữa háng.(@)
Nếu chàng chui lọt được vào để phá phách nội tạng, tất vị nữ hoàng cõi U-minh phải mạng vong, do đó con người trên dương thế sẽ trường sinh bất tử.
Không may, Maui mới chui vào được nữa người, thì một con chim thấy cảnh đó khôi hài quá bèn cười phá lên.
Hine-Te-Po giựt mình tỉnh dậy và kịp thời kẹp chết Maui.
Từ đấy loài người đành chịu kiếp sống phù du với sinh, lão, bệnh, tử và chết là hết không còn được trở lại dương thế sau một thời gian nương náu ở cõi âm nữa.” [Doãn Quốc Sỹ - Thần Thoại (C) - thần thoại Pôlynêsia-tr.39-40 – Sáng Tạo xb.]
(+) – kẻ đẻ thiếu tháng là kẻ có bộ não tật nguyền bẩm sinh!
Ôi! cái chết bi hài làm cho cả muông thú cũng phải…cười!!!
Và…câu chuyện còn đem lại cái lý thú cho nhà ngữ học Việt Nam cũng như Trung Hoa về việc điều tra gốc ngữ (étymologie)!
(@)-“ chui vào bụng tổ mẫu bằng con đường giữa háng. ” = tác giả phát họa ra một hình ảnh cụ thể và chính xác vị trí lối đi vào [= tức cái cửa]…mà là vào bụng bằng con đường giữa háng – vậy không phải là cái cửa mình sao?
- Đi vào lối này và chết ngay tại đây! Đó chính là cửa tử! đích thật là “tử cung” rồi chứ còn gì nữa
- Và đi tìm trường sinh bất tử thì phải bước qua cửa mình, chui lọt vào tử cung để theo đường xuống âm phủ tức đi trên đường Âm đạo. Con đường đi về cõi chết mà sống được à!
- Âm phủ <phủ hay hộ cũng là nhà > nơi ở: gọi là Cõi Âm tức “âm hộ” là cõi chết. Cư trú ở âm hộ…mà nói chi đến sự sống!!!
@- Trước khi bước vào thì phấn khởi, hùng hổ lắm…tưởng mình sắp thắng rồi nên càng hấp tấp, hung hăng…không ngờ!!! và mấy ai học thuộc chữ ngờ nên đành chết ngay tại cửa ải!!! Do đó cái cửa này sau nổi danh thành “tử cung”!
Vào tử cung mà không chết mới lạ!
Sự chết mở ra, sự sống khép lại!
Thôi từ đây xin giã từ ước mơ một cõi đi về…chỉ còn lại cái bụi trần ai trần trụi mà Ngài đã phán như đinh đóng cột từ sáng thế:
-“Cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, sẽ trở về bụi “ [STK.3:19]
* Đó là lời Chúa! Tạ ơn Chúa! Deo gratias!
Và đến Giao Ước Mới, con Ngài, một lần nữa xác nhận lời Cha:
-“Đức Chúa Trời không phải là Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống.” [Math.22:32]
* Đó là lời Chúa! Tạ ơn Chúa! Deo gratias!
Amen!
THẾ GIỚI BÊN KIA...???
Cụ JEAN GUITTON, năm nay 93 tuổi (1995), từng là người đồng thời với Henri Bergson nhà đại triết gia và Paul Valéry nhà thơ danh tiếng. Và mới đây cụ đã dám chịu chơi, lao vào cuộc đối thoại kỳ thú giữa cụ, một người công giáo nhiệt thành và nhà văn Jacques Lanzmann, một nhà vô thần lớn đứng trước Đấng Vĩnh Cửu. Và cụ đã cho in một cuốn sách : “ Kẻ tin có trời và người không tin” do hai nhà DDB và Lattès đồng xuất bản. Không kể cuốn sách này, cụ đã cho ra đời hơn năm chục tác phẩm, trong đó có cuốn : “Thời gian và vĩnh cửu theo Plotin và Thánh Augustino” Chính vì đọc cuốn sách này mà Tổng thống Francois Mitterrand đã đến thăm cụ ngày 17-11-1994 để bàn bạc về sự vĩnh cửu.
Cụ Jean Guitton kể cho nhà báo L’Express Lanzmann: - Ông Mitterrand có nói : “ Cụ đã viết một cuốn sách về thời gian và vĩnh cửu. Chết tức là giả từ thời gian để đi vào vĩnh cửu. Tôi đến thăm cụ, một chuyên viên về bước ngoặt chuyển từ thời gian sang vĩnh cửu , hay chuyển sang cái gọi là thế giới bên kia như người ta quen nói. Cụ có thể cho tôi biết điều gì xảy ra ở thế giới bên kia không?” Ông đến thăm tôi như tuồng một người bị thấp khớp đến với ông thầy chữa thấp khớp vậy.”
Trước câu hỏi này cụ thường trả lời với mọi người : “ Thế giới bên kia tôi không biết nó ra sao cả, chỉ vì nó ở bên kia thế giới này.”
Nhà báo Lanzmann : “ Ấy là cụ nói trên bình diện văn hóa và suy tưởng. Còn đức tin? Liệu chúng ta có thể tin rằng thật sự Thiên Chúa chời đợi mỗi con người chúng ta để phán xét? ”
Cụ J. Guitton : “ Đó là vấn đề lớn hơn mọi vấn đề. Điều mà các triết gia gọi là chủ nghĩa duy linh và đối lập với nó là chủ nghĩa duy vật, điều đó là đúng hay sai? Kitô giáo là đạo thật hay là đạo giả? Phải đánh cá thôi. Tôi tin có Thiên Chúa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy Thiên Chúa. Pascal đã có lý khi bảo rằng : “ đối diện với những vấn đề lớn ta phải nhảy liều vào trong cái vô minh (inconnu) nghĩa là làm một hành vi tự do.”
Lanzmann: “ Cuộc đánh cá cược của Pascal là một tiến trình của một nhà toán học, chứ không phải tiến trình của đức tin.”
J.Guitton : “ Ông Pascal đã trình bày nó dưới dạng toán học, nhưng hành vi này, mọi người đều làm, trong mỗi lúc. Biết rằng chúng ta là người sẽ phải chết và không biết điều gì sẽ xảy ra ở bên kia cái chết, chúng ta làm cuộc cá cược.”
Lanzmann : “ Trong cá cược, không làm gì có hồ nghi. Một là tài hai là xỉu. Một là được ăn cả, hai là ngã về không. Nhưng trong tiến trình đức tin, thoạt tiên có nghi ngờ. Cụ không bao giờ nghi ngờ chứ? ”
Cụ J. Guitton : “ Có chứ ! Nghi ngờ hoài. Chính vì nghi ngờ hoài nên tôi có cái mà người ta gọi là óc phê bình. Nhưng, chính vì nghi ngờ hoài, mà tôi không bao giờ nghi ngờ. Điều này khó giải thích…”
[nguồn: “cônggiáo và dântộc – số 8-tháng 8/1995 – trong bài: “Triết gia JEAN GUITTON tự bạch” - Nếu tôi là Thiên Chúa…tr.27 – Hoàng Minh Thức (dịch trong Express 9-2-95)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét