Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Chó tha đi rồi


Ushas là cựu hoa hậu hoàng vũ đã từng là đại sứ Liên Hiệp Quốc cho trẻ em toàn cầu và là đương kim danh ca Ấn Độ, và cũng đã từng ra vào bệnh viện để thay van tim.
Chẳng những trái tim cô tìm đến bệnh viện mà nó còn đến với thiền nữa. Thiền đã giúp cô an lạc và vui sống và sống có ích cho tha nhân. 
Trẻ em đối với cô chỉ là trẻ em: cô không nhìn ra đẳng cấp nơi chúng, cô không thể phân biệt được, dù cô cũng nhiều lần tìm ở một khía cạnh nào đó để phân tách nhưng cô vẫn không thấy. Cái mà cô tâm đầu ý hiệp với Thánh Gandhi như lúc mà Ngài còn đấu tranh với thực dân Anh: “chủ- đích của (chương trình tranh- đấu) là làm cho chế- độ đẳng-cấp và paria cùng những mê- tín dị-đoan khác phải tiêu tan”, và; “Chúng ta đều biết rằng hệ-thống đẳng-cấp đã trở nên lỗi thời. Nó cần phải được hủy bỏ nếu cả Ấn-độ-giáo lẫn quốc-gia Ấn-độ muốn tồn-tại và phát-triển”(1). 


Có chăng chỉ là giàu với nghèo. Giàu và nghèo chưa nói lên cái đẳng cấp. Kể cả màu da hay chủng tộc cô cũng không nhìn thấy cái bản tính đẳng cấp nơi nhân loại ấy dầu cho Thánh nhìn thấy “Tôi coi hệ-thống tứ đẳng-cấp và tứ giai-đoạn (âshrama) như một sự phân-công hợp-lý theo dòng giống”[sd.trên-tr.44-chú thích(13)].

Cô nhiền lần tuyên bố khẳng định cần phải xóa bỏ quan niệm đẳng cấp trong tư tưởng Ấn Độ, dù cho đó là ý nghĩ “gian lận” như thánh Gandhi khẳng định: “Nhưng nếu muốn chuyển từ đẳng-cấp này sang đẳng-cấp khác ở trong cùng một kiếp thì chỉ đưa tới kết quả tất-nhiên là một sự gian-lận lớn lao”[sd.trên-tr.44]. 

Chính cái nước đôi bất nhất mơ hồ của Thánh: “Tôi là tay cải cách triệt-để từ gót chân cho tới đỉnh đầu, nhưng nhiệt-tâm của tôi không khi nào xui dục tôi bài-bát một phần cốt- yếu nào của ấn-giáo cả.”(2) lại làm cho cô quyết tâm hơn, khẳng định và thống nhất hơn trong tư tưởng và việc làm của cô càng vững vàng thêm ra như kiền ba chân. Nhưng dù vậy, tuyệt nhiên cô vẫn kính trọng Ngài vì Ngài là Hội trưởng trong Liên-Ấn Bảo-Trợ Tẩn-lao Hội ( Hội bảo-trợ bò cái ở khắp Ấn-độ)-[sd.tr.III: Tựa]. 

Đó là giải đồng tâm của nàng với Ngài, đơn giản vì nàng cũng là giống cái.

Gandhi là Thánh là không ngoa. Quả lời ông ứng nghiệm nhản tiền! Và Ushas đã phải nhận cái giá của sự “gian lận” đó.

Là thế này, hôm đó, sau khi cô đi tắm ở sông Hằng về; cô vào Ashram của Thánh để thiền định thì đột nhiên cơn đau tim bùng phát và cô được đưa ngay vào bệnh viện tim, may thay lại là bệnh viện mà cô thường lui
tới – cô thường gọi là bệnh viện nhà – Lần này bác sĩ riêng của cô buộc phải quyết định thay tim cho cô vì van tim của cô được thay nhiều lần quá rồi không thể bổn cũ soạn lại được nữa. 

Sau cấp cứu, cô tĩnh lại và cô đồng ý ký vào biên bản thay tim – tim nhân tạo - Phẩu thuật thay tim tiến hành.

Bác sĩ chính của cas phẩu thuật này vừa hoàn tất thao tác cuối cùng là cắt rời quả tim khỏi động mạch chủ và đưa cho bác sĩ phụ và bác sĩ phụ chuyển cho cô y tá. Cô y tá đưa hai tay ra nhận và vừa xoay qua để bỏ vào khay thì cùi chỏ cô đụng phải tay của một bác sĩ khác làm cho quả tim rơi xuống đất. 

Nhanh nhơ chớp, không biết con chó đứng đó tự bao giờ, ngoạm ngay quả tim nóng hổi phóng ra cửa; cô y tá tri hô lên, đuổi theo nhưng con chó mất dạng. 

Bác sĩ trưởng cas mổ vừa cùng với các bác sĩ khác lắp ráp quả tim nhân tạo cho cô vừa hỏi nó đâu rồi, và được trả lời “chó tha đi rồi”. 

Sự cố gây xôn xao và làm cả bệnh viện hoản loạn. Nhưng rồi mọi việc cũng êm xui, và mừng nhất là sau 5 giờ cô hồi phục và tĩnh táo làm như thể chẳng có sự gì xảy ra.

Câu đầu tiên sau khi cô tĩnh: “Quả tim tôi đâu rồi?”. Bác sĩ điều dưỡng đang đứng bên giường trả lời: “Chó tha đi rồi!”. Cô hốt hoảng: “Vậy Atman(+) tôi đâu?”. Cô y tá đứng đó nói vào: “Chó tha đi rồi!”

Chó tha đi rồi” trở thành chuyện lớn ở Ấn Độ.

Các Ashram, các tu viện, các thiền viện, các viện đại học nhốn nháo lên.
Các gourou bắt đầu nao núng vì câu hỏi, mà hình như là câu hỏi đồng nhất “Atman (+) ở đâu?” cùng với câu trả lời cũng đồng nhất: “Chó tha đi rồi”.

Do sự truyền tụng của đệ tử Vedanta đoan quyết rằng ở chính giữ trái tim - cái khối huyết nhục ấy - có một bông sen nhỏ xíu biểu hiệu thần thánh của tư tưởng Ấn Độ. Cái bông sen của trái tim đó chính là chốn thẳm sâu nhất của nội tâm (akasa), chính là nơi ẩn cư của Atman: “ Chỗ sâu kín (guha) của trái tim, đó là vị trí của Buddhi và được coi như chính buddhi. Và ătman nằm sâu giữ trái tim cũng được coi là nằm sâu trong nội-trí (buddhi)(3) đã mau chóng trở thành đề tài sống cho những cuộc tranh luận sống chết chẳng những ở Ấn Độ mà còn lây lan sang các viện đại học Âu châu, và không dừng lại ở bất cứ biên giới quốc gia nào, ngay cả ớ Việt Nam – mà nhất là ở Trung Hoa cũng ồn ào không kém – Do là, một sự ngẫu nhiên kỳ lạ, có người cho là kỳ thú không khác gì các pha
kiếm hiệp kỳ tình ly kỳ đệ nhất thiên hạ. Ấy là ở Thượng Hải cũng vừa
thay tim nhân tạo cho một minh tinh màng bạc nổi tiếng Triệu A’Vy, chỉ trịch sau Ushas một ngày. Mà ở đây e còn gay gắt hơn vì câu hỏi “lương tâm ở đâu? Suy nghỉ ở đâu?” vì câu trả lời cũng y hệt: “Ở trong tim”.[“Ngày xưa tưởng lầm rằng trái tim là chỗ nghĩ ngợi lo lắng, nên phàm cái gì thuộc về nghĩ ngợi lo lắng đều gọi là tâm”-Đào Duy Anh-Hán Việt giản yếu-xb.Minh Tâm-]

Ushas có một trái tim thật bao la khi cô trả lời cuộc phỏng vấn trước các nhà báo và các hãng thông tấn quốc tế về việc thay tim của cô.

Hỏi. - Cô cho biết, tim của cô đâu rồi?
Ushas. - Chó na đi rồi. Còn cái đang trong lồng ngực của tôi đây là “quả tim của tôi”

Hỏi. - Vậy Atman của cô có trong quả tim nhân tạo đó không?
Ushas. - Xin kể hầu quí vị một câu chuyện: Hồi nhỏ đứa bạn tôi bị đứt một ngón tay; cô ấy lo lắng lắm, bèn đi hỏi một vị gourou: “ thưa thầy, khi con làm đứt ngón tay thì Atman của con có bị đứt không hay nó thụt vào trong?” Vị gourou của chúng tôi bảo “ nó không đứt mà nó cũng chẳng thụt vào, nó “ngụ ở nơi sâu kín trong tâm, chốn an vị của Đấng Tối Cao”[Tiết 3-Katha Upanishad,I], tức nó nằm ở giữa con tim con đó.[Kinh Upanishad dạy rằng: “Khi thân xác hấp-hối và yếu dần, linh-hồn thu-thập hết năng-lực vào trong tim. Khi cái ngã ở nơi con mắt tắt đi thì người đó không còn nhận biết hình-thể gì nữa. Khi ấy tất cả mọi cảm giác, ý-nghĩ và ngôn-ngữ đều ngưng tắt và trở nên một. Khi ấy điểm sáng trong tâm lóe lên và linh-hồn ra đi mang theo cả vốn liếng tri-thức cùng công-đức và tội-lỗi”](4). Bao giờ tim con ngừng hoạt động, ấy là lúc nó ra đi để nhập vào đại ngã Brahman, và con chính là Brahman.”
- Đố quí vị, giờ thì Atman tôi ở đâu?

Một nhà báo trả lời:- Nó đang ở trong bụng con chó.
Ushas. – Nó đang ở trong đầu ông đó.

Hỏi. – Xin cô nói rõ hơn.
Ushas. – Khi mà con người chưa đi sâu được vào vật thể thì họ lấy cái kinh nhiệm thường nghiệm làm dữ kiện cho suy luận của họ. Khả năng suy lý là khả năng bẩm sinh của con người: diễn dịch và tổng hợp là hai khả năng của luận lý ấy. Câu chuyện “mặt trời quay quanh quả đất” là một ví dụ. Những suy nghĩ ấy, những kết luận ấy là đương nhiên, và đương nhiên đúng. Đúng cho đương thời. Đúng cho não trạng của thời đại. Thời đại này bạn cũng khó bác bỏ được sự hiện hữu của thượng đế mặc dù người tin cũng như bạn đều không chứng minh được. Trí não con người vươn xa lắm, chỉ khi cá nhân nào vượt thời đại thì mới có thể khám phá ra cái lỗi thời của quan niệm cũ. Dẫu là quan niệm cũ ấy ngay chính đương thời cũng đã lỗi thời rồi mà gặp phải cái đầu cũng cũ rích nữa thì cái lỗi thời cũng mới toanh. Nói như Héraclite: “Thần thánh mà chiến đấu với cái ngu thì thần thánh cũng phải thua nữa là!”. Giordano Bruno, người tiếp nối công trình của Copernic, bị Tòa Án Tôn Giáo thiêu trên giàn hỏa tháng hai năm 1600 là bằng chứng, chỉ vì thành thật ngây thơ đến dại dột đi công bố “quả đất quay quanh mặt trời” “mà còn đi xa hơn nữa với ý kiến là có thể những thế giới khác cũng có người ở với những sinh vật văn minh bằng hay cao hơn chúng ta”(5).Cả John Calvin, người sáng lập một hệ phái Tin Lành (Calvinisme) cũng “hùng hồn buộc tội Copernic, nhắc lại bài thánh ca: “quả đất đã được đặt định, nó không thể di chuyển đi được” và ông đã giận dữ hỏi: “Ai dám cả gan đặt uy quyền của Copernic trên Chúa Thánh Thần?(6). Bruno thiếu khôn ngoan…khác với Galilée “ phải quì gối tuyên thệ từ bỏ mọi tin tưởng vào các thuyết của Copernic ”(7) nên Galilée thoát chết nhờ: một sự nhịn, chín sự lợi.

Hỏi. – Có khi nào cô bắt đầu nhiều chuyện rồi không đó?
Ushas. – Vâng, phải vậy thôi. Chúng ta đang đi vào câu chuyện dài. Dài dằng dặc nữa là khác. Câu chuyện buồn.

Hỏi. – Chuyện thay tim làm cô buồn?
Ushas. – Tôi vừa được y khoa cứu. Tôi cám ơn nhân loại, tôi cám ơn sự nổ lực của con người mang lại bao điều tốt đẹp…vải vóc - từ xe đạp đến xe hơi đến máy bay tàu thủy xe lửa – điện - radio-tv-computer, âm nhạc -hội họa -điêu khắc -thơ văn…toán học -khoa học…kỹ thuật kiến trúc -công kỹ nghệ, và mọi thành quả khó nhọc khác từ công lao của bao người, bao đời cho nhân loại chúng ta hôm nay ân hưởng…làm cho con người cần nhau và tin nhau hơn, quả đất đẹp thêm ra. Xin thưa với quí vị: tôi đang vui và quá hạnh phúc vì được sinh ra trong thời đại này. Cho tôi xin nói lời cám ơn Ba-Mẹ tôi đã cho tôi sự sống. Xin cảm ơn nhân loại nâng đở, bảo bọc sự sống của tôi.

Hỏi. – Còn chuyện buồn?
Ushas. – Buồn là buồn vì nhân loại bị các tay phù thủy hướng dẫn– như ngôn từ Đức Phật- và “Đứa mù dẫn đường” mà Đức Jésus nói [Mat.23:16]

Hỏi. – Khi nào cô hết buồn?
Ushas. - Bao giờ nhân loại còn buồn thì tôi còn buồn.

Hỏi. – Cô chờ đến tận thế à?
Ushas. – Năm 2000 đã tận thế rồi sao cứ đòi tận thế mãi vậy?

Hỏi. – Chuyện Y2K qua rồi, cô nhắc lại làm gì?
Ushas. – “Ôn cố, tri tân.”

Hỏi. – Liệu có ích gì?
Ushas. – Chỉ để mong ai đó thà làm thinh còn hơn nói bậy, đừng manh nha thêm nữa.

Chỉ xin họ “biết thì thưa thì thốt, không biết thi dựa cột mà nghe”, như Đức Khổng từng dạy: “Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết; ấy mới thật là biết.”, mà W. Shakespeare thì: “Không có di sản nào quí giá bằng lòng trung thực.”

Mong họ học được chữ “THÀNH” của Ngài Khổng ấy cho nhân loại thừa đau khổ được nhờ như nhân loại đang hưởng bao nhiêu công lao của những người ít nói mà âm thầm cống hiến cả trí lực lẫn tâm lực cho văn minh con người.

Hỏi. – Cô tưởng văn minh đem lại hạnh phúc cho con người?
Ushas. – Thời đồ đá có cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Thời đồ đồng có cả đau khổ lẫn hạnh phúc. Thời nguyên tử cũng có cả khổ đau và hạnh phúc. Thời @ cũng thế thôi, có khác chi? Tiếc cho người không biết sử dụng con dao chứ người thợ rèn có lỗi gì; sao không biết ghi công họ vào danh
sách “ân nhân của nhân loại?” Họ rèn ra lưỡi cày, sao lấy lưỡi cày của họ rèn ra gươm giáo?

Hỏi. – Giờ cô thấy trong người cô thế nào?
Ushas. – Giờ thì y học đã minh chứng cả “cái Atman” lẫn “cái Tâm” không hiện diện trong quả tim tôi rồi chứ?
Vì Atman không an cư lạc nghiệp trong tim tôi nên tôi mới còn “cái tâm” để bộc bạch cùng quí vị đây.
Vậy thì giờ chúng ta biết rõ: uy quyền của Copernic đã được đặt trên Chúa Thánh Thần rồi, phải không? Và Copernic có chiến thắng là chỉ “chiến thắng sự ngu dốt và lòng câu chấp”(8) thôi.

Chủ nhiệm buổi phỏng vấn. – Xin cô một lời sau cùng.
Ushas.– Cho tôi xin mượn một ngạn ngôn của người Pháp:
-“Tant d’hommes ne seraient pas insolents si tant d’autres n’étaient pas si lâches
[=Nếu không có nhiều người khiếp nhược thì cũng không có nhiều người ngạo mạn thế.]

Chú thích:
(1) dẫn lại Lê Xuân Khoa-[“Triết học nhập môn Ấn Độ”-tr.49(chú thích 24 và 25)-TT.Học-Liệu Bộ Giáo-Dục xb.1972-]
(2) [“Đại tư-tưởng của Thánh Gandhi-”tr.80 trong “Tựa tr.IIvàIII-“Thơ gởi về Ashram”-Gandhi-Nguyễn-Văn-Nhuận dịch-xb.Nguyễn-Văn-Huấn-Saigon-1949]
(3) Hoàng-Sỹ-Quý [“Triết sử Ấn Độ II”.Vedanta-tr.46 – Hưng-Đông Văn-Giáo xb.1974]
(4) Lê Xuân Khoa- sd.-Upanishad “Về vấn đề giải thoát”tr.138.
(5) “Những tác phẩm biến đổi thế giới”-tr.273- Hoài Châu và Từ Huệ dịch- Văn Đàn xb-1970-]
(6) [sd.trên (5)-tr.272]
(7) [sd.trên (5)-tr.273]
(8) [sd.trên (5)-tr.277]

 (+) Hình ảnh mà Vedanta gợi ý cho chúng ta có thể ý niệm được mối liên hệ giữa Đấng Sáng Tạo [Brahman] và Tạo Sinh [Atman] là Biển Cả và Giọt Nước Biển. Từng giọt nước biển là từng hiện sinh, là từng tạo vật, là một phần của biển cả; tức Atman là bản thể/tính thể của mỗi tạo sinh, được triết hóa thành công thức: “Brahman = Atman” hoặc   được phát biểu thành Thánh ngôn: “Om Tat Tat = Tôi là Đấng Ấy.” hay như Vedanta nói: “Tat Tvam Asi” = Ngươi là Đấng Ấy.

-Và cụ thể hơn, nói như Vivekananda: “Khi bạn cho con chó một miếng ăn, thì bạn sùng bái con chó như Thượng đế vậy, Thượng đế ở trong con chó đó, Thượng đế là con chó đó. Ngài là tất cả và ở trong tất cả.” [Vivekananda-“Tôn Giáo Là Gì,” tr.226; Vương Gia Hớn; An Tiêm; 1970]


Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2015

Trái Cấm


Có lẽ thật khó giải câu đố này của Đức Đạt-Lai-Lạc-Ma XIV : “Ngứa gãi sướng hơn hay không ngứa sướng hơn?”. Câu đố đầy thách thức!

Nhưng câu chuyện lại được kể như vầy :
Jéhova Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên [Adam và Eva] ở đó. Jéhova Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác.”[STK.2,8]

“ Vả, trong các loài thú đồng mà Jéhova Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng:Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái cây trong vườn sao? Người nữ đáp rằng : Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn, song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng : Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đã động đến, e hai ngươi phải chết chăng. Rắn bèn nói với người nữ rằng : Hai ngươi chẳng chết đâu; nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mỡ ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.”[STK.3,1-2-3-4-5] Điều đó ĐCT xác nhận : “Này,về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bực như chúng ta.”[STK.3,22]

Nhưng chính bà Eva tiên cảm, nên quí trái cây ấy, như Bà lý giải “vì để mỡ trí khôn”[3:6].

Ôi thôi rồi! ham mở trí – mở mắt nên mới thấy mình lõa lồ! Từ đó, loài người bước một bước khá xa, bỏ lại đằng sau các bằng hữu động vật của mình mà đi con đường riêng. Con đường phân biệt điều thiện và điều ác. Con đường của lý trí. Con đường của sáng tạo. Con đường của văn hóa. Mà chính văn hóa đã hình thành nên cái: “ phân biệt điều thiện và điều ác ”, cái mà Vương Dương Minh gọi là “Tri thiện tri ác tức thị Lương Tri” đó.

Nhưng với lời cảnh báo của ĐCT:“Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đả động đến, e hai ngươi phải chết chăng.” Trước thách thức trọng đại ấy: chấp nhận? hay không chấp nhận? đưa Bà đến sự chọn lựa:

Và Bà can đảm CHỌN: “vì để mở trí khôn”.

Và từ đó, TRÍ KHÔN có con đường để đi: “TỰ DO”.

Vâng, ĐCT đã sinh ra cây trái ấy và đặt vào vừa tầm tay Bà và còn cho Bà cái cảm xúc thèm thuồng với một cơn cám dỗ không cưỡng lại được do lời dỗ dành của con rắn là loài khôn ngoan mà cũng chính Ngài đã mang đến cho làm bạn với Bà.

Chính cây trái đó, chính vị ngon ngọt của trái cây đã mở mắt, mở trí cho Ông Bà nhận biết điều phải điều trái, điều đúng điều sai, cái thị cái phi, cái thiện cái ác.

Nhưng ĐCT không gài, không cưỡng bách, không thử thách; mà để ban cho Bà một đặc ân: TRÍ KHÔN! và trao cho Bà cái quyền: TỰ DO!

So với các chủng loài khác, loài người thiếu nhiều may mắn : khả năng tự vệ và tấn công kém, tài thoát nạn thua xa các bằng hữu, cơ may sống còn trong thiên nhiên thật mong manh. Thế vậy mà loài người sống mãnh liệt nhất, lại chiếm ưu thế thượng phong, còn nhảy lên hàng thống trị muôn loài. Tình thế đảo ngược ấy nằm trong ân huệ của thiên nhiên ban tặng: bộ não! Sự cách biệt giữa chúng ta và các chủng loài khác cũng chỉ hơn kém nhau ở bộ não ấy thôi. Chính trong họ linh trường( tay dài) – loài người cũng bỏ xa do không ngoài bộ não của chúng ta trổi vượt hơn.

Giả như, khi ấy Bà nhát gan không dám vói tay lên hái trái cây ấy, thì nhân loại bây giờ sao nhỉ? Chắc chắn vẫn còn là bạn với lang trùng, hổ báo…vẫn còn lẫn vào loài chim bay, thú chạy!... đêm ngủ vách núi, ngày hái hoa rừng, uống nước suối trong…thơ mộng thật!

Ngay chính ngụ ngôn đã giải mã qua tiên cảm của bà Eva “quí vì để mỡ trí khôn”. Và chính trí khôn mới cho ra những nhận biết và phân biệt điều thiện và điều ác.

Và chính nó, “cái trí khôn” ấy lại là con dao hai lưỡi, như ĐCT phán: “Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đã động đến, e hai ngươi phải chết chăng”

Quả là một ân sủng khó đương ! Ân huệ càng lớn, trách nhiệm càng cao.

Loài người đã đủ khôn để sử dụng cái ân huệ trọng đại ấy của thiên nhiên chưa ? Câu trả lời của Cadao Việtnam là: “Thế gian còn dại chưa khôn !”.Loài người đã tận dụng cái trí khôn ấy để tàn hại nhau khá tận tình. Và
cũng cái trí khôn ấy đã đưa nhân loại ra khỏi vùng tăm tối…bước thêm bước nữa vào vùng sáng lạn ! Bước đi ấy, trong nhân học gọi là bước hóa văn (esthétisation – esthétiser) = hóa văn + [esthetization -esthetizime]
Uranium, Plutonium…nếu dùng để giết nhau thì “e phải chết chăng”.
Khôn sống! Mống chết!

Thiên nhiên không rút lại ân sủng đã ban. Loài người có trút đi cái ân sủng đó hay không là tuỳ vào sự chọn lựa của mình.

Tự thân cái ân sủng đó đã sẵn có cái chủng tử chọn lựa rồi : hoặc THIỆN, hoặc ÁC.

Cũng từ cái lý trí ấy mà biết điều thiện điều ác. Ẩn ngữ mà hiển nghĩa trong phép tỷ của văn chương: “ cây biết điều thiện điều ác” là thông điệp mà người xưa gữi lại cho người sau.

Khi Bà vói tay lên hái trái cây “biết điều thiện điều ác”, Bà đâu có ngờ: “Một lần đẵm cứt, một lần chặt chân”. Nhưng không sao, Mẹ càng vui hơn vì từ đó mà con cháu Mẹ mới thoát khỏi cảnh thú u ám mà nâng mình lên một bậc. Và con cháu Mẹ biết ơn Mẹ.

Đó chính là: “Anh đã đi con đường từ giun lên làm người…”, Zarathustra nói như vậy! Và Shri Aurobindo cũng cho biết: “ Con vật là con người giả trang dưới bộ lông lá và đi bốn chân. Con sâu là con người đang bò vặn vẹo và trườn về sự triển khai nhân tính của mình.” [“Apercus et Pensées”-tr.27-Adyar-Paris-1950 (Yếu Cương và Mặc Tưởng)]

Nên một khi loài người vươn tay lên hái “Trái Cấm” rồi thì không rút lại được nữa vì điều khoản “bất hồi tố” của luật, cho nên – rút kinh nghiệm – “Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.”[STK.3,24]

Dẫu “mất trâu mới làm chuồng”- nhưng như thế vẫn chắc ăn hơn – khỏi pahỉ hối hận một lần nữa! Và từ đấy con người mất cơ hội
Lời đã được nói ra là lời hằng sống: “Này, về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e loài người giơ tay lên cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời chăng” [STK.3,22].
Đức Chúa Trời đã cẩn thận rào dậu “Cây Sự Sống” một cách nghiêm mật với lính canh gươm sáng chói lòa để trừ hậu họa, thì từ đây con người chớ có mơ “được sống đời đời”! Cái viễn cảnh “bất tử” của con người đã bặt đường đi lối về! Thì cái “Đằng Kia” (Au-de-Là) ở đâu nữa mà ước, mà vọng, mà cầu…!!!
Ngài chỉ nhở nhàng chiêu đầu nên loài người ngày nay mới hưởng được sự sơ xuất ấy. Ấy là ân sủng!
Cái ân sủng: “ PHÂN BIỆT ĐIÊU THIỆN VÀ ĐIỀU ÁC ” được ĐCT giả đò sơ hở lở ban đặng loài người chia xẻ cái “ LƯƠNG TRI ” cho cùng một bậc với Ngài.
Từ đó cái Lương Tri làm thành cái Thần Tính của Con Người , và nói một cách chính danh Lương Tri chính là Nhân Tính [của con người vậy].
Con người mà mất đi cái lương tri thì sẽ được nhân loại đồng hóa nó với súc vật.
Để cụ thể người ta nói : đồ mất nhân tính…đồ súc vật, súc sinh….không còn là người nữa…đồ chó…trâu, bò, heo…con vật càng tồi tệ càng được so kè với “đồ” bỉ ổi hơn…đồ rắn độc…langue de serpent! Cette bête là!
Một chút chia xẻ  từ  MDLEECHEN's blog trong Entry: "Còn chăng một chút lương tri?..." lấy từ nguồn báo Thanh Niên 10.01.08 với bài: "Sự bạc đãi không thể tha thứ.": câu chuyện kể về sự bạc đãi của các con và cháu nội của bà Nài...bị đánh và tử thương. MDLEECHEN ở cuối bài đưa ra câu hỏi:" Còn chăng một chút lương tri?" và xin ý kiến của các bạn mình: “ Bạn ơi! Bạn nghĩ gì đây? ”. Và đây là một số suy nghĩ của bạn bè:
@PANDA: "...họ còn thua xa những con thú...vì cái ích kỷ riêng tư của mình mà dẫm lên trên tất cả luân thường đạo lý.- Nghỉ gì về họ ư? Là tàn ác, là cầm thú...
@VƯƠNG...: "...bây giờ trong xã hội loài người còn có thêm những cá thể loài sói, loài cáo, loài ác quỷ tồn tại cùng... - Không có lương tri chị ạ! vì có phải con người đâu mà có lương tri hả chị."
@hawkw...: " Không bằng cả súc sinh."
@NGANHA: " Không bằng cả loài cầm thú L à! Xót xa và phẩn uất, đó là những cảm xúc đan xen trong chị khi đọc bài viết này!!!..."
@TRANC...: " Tiền làm mờ lý trí và thúc đẩy những đứa con trở lại làm vượn người!"
@idol o : " Đồ...súc vật, cái loại con chó chứ đâu phải con người."
@Mdleechen: " Luân thường đạo lý còn đâu? Súc sinh con cháu đầu trâu khác gì?"
@HK(lo...: " Đúng là không thể tả được cảm xúc của em. " Chúng nó" mấy đứa cháu của bà Nài còn không được bằng một con chó."
@Khucthuydu: “Như thể một sở thú vậy”

**********Chứ tiếp chiêu sau, rút kinh nghiệm! loài người mất cơ hội hằng sống đời đời.

Từ ấy…Mẹ đã quay đít lại cái vườn Eden có “cây sự sống” đang được canh giữ cẩn mật với gươm lưỡi chóa lòa…mà bước những bước đi mạnh mẽ và hân hoan với tay cầm “trái văn hóa” cùng hạt “lương tri” của nó để gây giống cho con cháu Mẹ về sau! Rồi Mẹ kể cho con cháu Mẹ nghe câu chuyện vui vui để cho hậu duệ Mẹ chớ có thèm cái đời đời trời ơi vớ vẩn hảo huyền đó nữa!!!

Chuyện kể rằng: “ Người có công an bài cuộc sống nhân gian là MAUI . Bà Mẹ Maui thuở mang thai sinh chàng thiếu tháng (+). Tin rằng đó là điềm gở, bà ném đứa con sơ sinh của mình xuống đại dương. May thay đứa bé được tổ phụ là thần Mặt Trời cứu, mang lên thiên cung nuôi nấng, dạy dỗ; đến khi khôn lớn thì vẫn cho trở về hạ giới sống với gia đình. Maui có tài biến hóa cho nên chàng quyết đi đến giới tuyến cuối cùng của nhân gian. Trên đường đi, chàng tỉ thí với vị thần nhân tổ phụ tên là Muri-Ranga, và đoạt đựợc xương quay hàm của vị tổ phụ bại trận đó làm một thứ khí giới vô địch cho mình.

Kế đó, Maui đã dùng cả uy vũ lẫn mưu cơ để đoạt được lửa của một vị tổ phụ khác tên là Mahuika ngự trị khoảng giữa miền dương thế và âm phủ.

Sau cùng, Maui quyết giúp con người thực hiện mộng trường sinh bất tử. Chàng theo đường xuống âm phủ,(@) đợi lúc vị tổ mẫu khổng lồ Hine-Te-Po ngủ say mới tự cởi hết quần áo rồi lén chui vào bụng tổ mẫu bằng đường giữa háng.(@)

Nếu chàng chui lọt được vào để phá phách nội tạng, tất vị nữ hoàng cõi U-minh phải mạng vong, do đó con người trên dương thế sẽ trường sinh bất tử.

Không may, Maui mới chui vào được nữa người, thì một con chim thấy cảnh đó khôi hài quá bèn cười phá lên.

Hine-Te-Po giựt mình tỉnh dậy và kịp thời kẹp chết Maui.

Từ đấy loài người đành chịu kiếp sống phù du với sinh, lão, bệnh, tử và chết là hết không còn được trở lại dương thế sau một thời gian nương náu ở cõi âm nữa.” [Doãn Quốc Sỹ - Thần Thoại (C) - thần thoại Pôlynêsia-tr.39-40 – Sáng Tạo xb.]

(+) – kẻ đẻ thiếu tháng là kẻ có bộ não tật nguyền bẩm sinh!

Ôi! cái chết bi hài làm cho cả muông thú cũng phải…cười!!!

Và…câu chuyện còn đem lại cái lý thú cho nhà ngữ học Việt Nam cũng như Trung Hoa về việc điều tra gốc ngữ (étymologie)!

(@)-“ chui vào bụng tổ mẫu bằng con đường giữa háng. ” = tác giả phát họa ra một hình ảnh cụ thể và chính xác vị trí lối đi vào [= tức cái cửa]…mà là vào bụng bằng con đường giữa háng – vậy không phải là cái cửa mình sao?

- Đi vào lối này và chết ngay tại đây! Đó chính là cửa tử! đích thật là “tử cung” rồi chứ còn gì nữa

- Và đi tìm trường sinh bất tử thì phải bước qua cửa mình, chui lọt vào tử cung để theo đường xuống âm phủ tức đi trên đường Âm đạo. Con đường đi về cõi chết mà sống được à!

- Âm phủ <phủ hay hộ cũng là nhà > nơi ở: gọi là Cõi Âm tức “âm hộ” là cõi chết. Cư trú ở âm hộ…mà nói chi đến sự sống!!!

@- Trước khi bước vào thì phấn khởi, hùng hổ lắm…tưởng mình sắp thắng rồi nên càng hấp tấp, hung hăng…không ngờ!!! và mấy ai học thuộc chữ ngờ nên đành chết ngay tại cửa ải!!! Do đó cái cửa này sau nổi danh thành “tử cung”!

Vào tử cung mà không chết mới lạ!

Sự chết mở ra, sự sống khép lại!

Thôi từ đây xin giã từ ước mơ một cõi đi về…chỉ còn lại cái bụi trần ai trần trụi mà Ngài đã phán như đinh đóng cột từ sáng thế:

-“Cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, sẽ trở về bụi “ [STK.3:19]

* Đó là lời Chúa! Tạ ơn Chúa! Deo gratias!

Và đến Giao Ước Mới, con Ngài, một lần nữa xác nhận lời Cha:

-“Đức Chúa Trời không phải là Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống.” [Math.22:32]

* Đó là lời Chúa! Tạ ơn Chúa! Deo gratias!

Amen!

THẾ GIỚI BÊN KIA...???

Cụ JEAN GUITTON, năm nay 93 tuổi (1995), từng là người đồng thời với Henri Bergson nhà đại triết gia và Paul Valéry nhà thơ danh tiếng. Và mới đây cụ đã dám chịu chơi, lao vào cuộc đối thoại kỳ thú giữa cụ, một người công giáo nhiệt thành và nhà văn Jacques Lanzmann, một nhà vô thần lớn đứng trước Đấng Vĩnh Cửu. Và cụ đã cho in một cuốn sách : “ Kẻ tin có trời và người không tin” do hai nhà DDB và Lattès đồng xuất bản. Không kể cuốn sách này, cụ đã cho ra đời hơn năm chục tác phẩm, trong đó có cuốn : “Thời gian và vĩnh cửu theo Plotin và Thánh Augustino” Chính vì đọc cuốn sách này mà Tổng thống Francois Mitterrand đã đến thăm cụ ngày 17-11-1994 để bàn bạc về sự vĩnh cửu.

Cụ Jean Guitton kể cho nhà báo L’Express Lanzmann: - Ông Mitterrand có nói : “ Cụ đã viết một cuốn sách về thời gian và vĩnh cửu. Chết tức là giả từ thời gian để đi vào vĩnh cửu. Tôi đến thăm cụ, một chuyên viên về bước ngoặt chuyển từ thời gian sang vĩnh cửu , hay chuyển sang cái gọi là thế giới bên kia như người ta quen nói. Cụ có thể cho tôi biết điều gì xảy ra ở thế giới bên kia không?” Ông đến thăm tôi như tuồng một người bị thấp khớp đến với ông thầy chữa thấp khớp vậy.”

Trước câu hỏi này cụ thường trả lời với mọi người : “ Thế giới bên kia tôi không biết nó ra sao cả, chỉ vì nó ở bên kia thế giới này.”

Nhà báo Lanzmann : “ Ấy là cụ nói trên bình diện văn hóa và suy tưởng. Còn đức tin? Liệu chúng ta có thể tin rằng thật sự Thiên Chúa chời đợi mỗi con người chúng ta để phán xét? ”

Cụ J. Guitton : “ Đó là vấn đề lớn hơn mọi vấn đề. Điều mà các triết gia gọi là chủ nghĩa duy linh và đối lập với nó là chủ nghĩa duy vật, điều đó là đúng hay sai? Kitô giáo là đạo thật hay là đạo giả? Phải đánh cá thôi. Tôi tin có Thiên Chúa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy Thiên Chúa. Pascal đã có lý khi bảo rằng : “ đối diện với những vấn đề lớn ta phải nhảy liều vào trong cái vô minh (inconnu) nghĩa là làm một hành vi tự do.”

Lanzmann: “ Cuộc đánh cá cược của Pascal là một tiến trình của một nhà toán học, chứ không phải tiến trình của đức tin.”

J.Guitton : “ Ông Pascal đã trình bày nó dưới dạng toán học, nhưng hành vi này, mọi người đều làm, trong mỗi lúc. Biết rằng chúng ta là người sẽ phải chết và không biết điều gì sẽ xảy ra ở bên kia cái chết, chúng ta làm cuộc cá cược.”

Lanzmann : “ Trong cá cược, không làm gì có hồ nghi. Một là tài hai là xỉu. Một là được ăn cả, hai là ngã về không. Nhưng trong tiến trình đức tin, thoạt tiên có nghi ngờ. Cụ không bao giờ nghi ngờ chứ? ”

Cụ J. Guitton : “ Có chứ ! Nghi ngờ hoài. Chính vì nghi ngờ hoài nên tôi có cái mà người ta gọi là óc phê bình. Nhưng, chính vì nghi ngờ hoài, mà tôi không bao giờ nghi ngờ. Điều này khó giải thích…”

[nguồn: “cônggiáo và dântộc – số 8-tháng 8/1995 – trong bài: “Triết gia JEAN GUITTON tự bạch” - Nếu tôi là Thiên Chúa…tr.27 – Hoàng Minh Thức (dịch trong Express 9-2-95)


































Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015

Thuyết hấp dẫn mới

Cái gì dù cho hấp dẫn đến mấy mà cũ mèm rồi thì sức quyến rũ cũng không còn lôi cuốn nữa. Sức hấp dẫn vì thế mất hiệu lực.

Cũ không có nghĩa là để lâu thành xưa. Nhà cũ không phải nhà cổ. Nhà cổ không phải nhà cũ. : tức rơi vào tình trạng suy đồi…thoái hóa!

Học thuyết cũng đồng chung số phận. Cũng kẹt vào cái vòng luân hồi ấy. Đấy là luật.

Đức Phật, người sáng lập tôn giáo từng nhìn suốt ba ngàn thế giới đã thấy trước chính học thuyết của mình rồi cũng sẽ bước vào con đường chung kết tất yếu ấy. Ngài đã nói trước [tiên tri] Phật pháp của Ngài rồi cũng sẽ đến ngày mạt pháp. Người duy nhất có đủ dũng lực nhìn nhận qui luật cay nghiệt này cũng áp dụng cho chính pháp đế của mình. Ngài nói: “ Ta biết những giáo lý của thế gian là những ảo thuật của những tên phù thủy. Ta thấy rõ tư tưởng cao siêu của sự giải thoát như là một miếng nhung vàng trong giấc mộng, và thấy thánh đạo của những kẻ thông sáng như những đóa hoa xuất hiện trước mắt một người. Ta xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao và Niết bàn là một cơn mộng du giữa ban ngày.”[1]

Miếng nhung vàng trong giấc mộng”, nói như người Tây phương là củ cà-rốt trước mõm con lừa và người Việt thì bảo là bánh vẽ!

Ngài không tự mâu thuẩn với Ngài, như [Socrate phán quyết: “tất cả mọi người Hylạp đều nói dối”, mà Socrate chính là người Hylạp]. Cho nên cái Pháp của Ngài bị đẩy tới thời mạt vận là do những tên phù thủy biến Niết bàn thành cơn mộng du. Ngài không lạ gì thói người! Cái đám lòi tói đó!
Pháp của Ngài gồm cả mạt- vận -pháp. Đó là cái lý đương nhiên, cái lẽ thường tình.

PHÁP!

Cũ không còn quyến rũ nữa; vậy nên cần cái hấp dẫn mới.

Do đó một lý thuyết mới cần phải ra đời, một hấp dẫn mới cần phải có mặt, để “cảnh báo” và “chỉ ra” cho nhân loại cái nguy cơ đi lộn đường.

Newton, Einstein còn bị một nhà bác học Việtnam đẻ thiếu tháng rặng ra “thuyết hâm hấp dớ dẫn mới” lật nhào, còn được ông Pgs.Ts Viện
trưởng viện khoa học phát triển nhân lực và tài năng Việtnam tung hô và khuyến khích cứ tự nhiên dám nghỉ dám làm chớ có sợ bóng đè, được báo Thanh Niên tổ chức công bố ngày 25-11-2006 một cách trịnh trọng và đầy tự hào cái “hâm hấp dớ dẫn” đó cho cả thế giới tỏ tường và học hỏi.

[Web:www.thanhnien.com.vn/khoahoc/2006/11/10/69467.tno-71]. [Web:www.vnExpress.net.Vietnam/khoahoc/2006/11/3B9F070E]

Tâm đắc nhất là tuyên bố của ô.viện trưởng tài năng đó: biết đâu ô.ấy có thể tìm ra một cái gì đó bổ sung sâu thêm những điều Newton và Einstein đã nêu ra. Hay! Một công trình khoa học tầm cở siêu quốc gia đem ra công bố mà thậm thò thậm thụt lưỡng ước cầu may “biết đâu”-“có thể”-“cái gì đónhư xin xăm không bằng!

Công trình này vĩ đại trăm ngàn lần công trình nghiên cứu đã được MC Thanh Bạch công bố, khi được hỏi: “VN có công trình khoa học nào thành công không?”- “Có chứ, sau nhiều năm khổ công cặm cụi nghiên cứu, một nhà khoa học VN chúng ta đã cho ra đời một giống lai mới: bắp hạt lép!”. Vậy mà cái công trình T.Bạch công bố lại chắc như bắp chứ không phải đồ cùi bắp như cái dớ dẫn dị đoan kia.

Hay là hay ở chổ:
- người ta có thuyết hấp dẫn, mình có thuyết hấp dẫn mới! Oảnh nhé!
- người ta có sầu riêng hạt lép, mình có bắp hạt lép! Cừ nhé!

Tâm đắc là tâm đắc từ nay cái tâm bệnh ẩn ức của Việt Nam bung lò xo bật dậy đếch sợ con ngáo ọp nào, dầu đó là cây đại thụ hay cây da xà!

Và càng tâm đắc hơn nữa là được bị xúi dục “Đừng sợ!” theo Huấn dụ của Đức Giáo Hoàng GIOAN-PHAOLÔ II (2): dù là Lời Chúa cũng phớt tĩnh, mặc cho Lời Hằng Sống, “dù trái với Tin Mừng” mà Dostoievski: “Theo thiển ý thì điểm ấy như sau: Chúa đã truyền lại tất cả cho Giáo Hoàng rồi, bây giờ mọi việc đều do Giáo Hoàng quyết định.” (3) Dĩ nhiên là Giáo Hoàng quyết định chứ ai. Ai vào đây? “ Chúng ăn bánh ta và trở gót lại cùng ta” [Jésus]- Không ngoa gì mà người ta gọi đó là Đạo Giáo Hoàng là vậy!

Ăn cháo, đá bát” là qui luật của muôn đời của muôn vàn giáo thuyết!
Đó là lý do cùng nhiều lý do khác mới có “Thuyết hấp dẫn mới” này trình làng.

Trước khi vào chính đề, xin được có một chút phụ đề về tác giả và nguyên lai tác phẩm.

Người viết đây là một phu xích lô, nhân sau môt buổi mệt nhoài, dừng bánh, tạt vào cái quán càfê quen thuộc bên vỉa hè mà rủi ro nghe lóm được một anh phu huyên thuyên với các bạn đồng nghiệp chúng tôi về một đề tài khoa học thật sôi nổi và đầy hấp dẫn. Cuối cuộc diễn thuyết, anh cho biết đấy là “thuyết hấp dẫn mới” mà một anh bạn khác gọi là “thuyết hâm hấp dớ dẫn mới

Đã là một triết lý được đẩy lên tầm một triết giáo thì sao không khỏi những lập luận hợp lý chặc chẽ. Đó là phương pháp suy luận có chứng minh cụ thể nói có sách, mách có chứng bằng thường nghiệm. Không có chỗ hở cho phản biện. Không chối vào đâu được.

Khởi đầu anh ta cho là mục tiêu tối hậu của mọi sinh linh là phải đào thoát khỏi cái vòng luẫn quẫn sinh-tử/tử-sinh. Vòng loanh quanh đó được ví như cái quạt cối xay gió, nó xoay hoài: lộn đi rồi lộn lại. Cứ kẹt vào cái guồng quay đó mãi thì khổ viên mãn.

Trốn thôi!
Nhưng làm thế nào thoát?

Muốn thoát thì phải biết cái qui luật của nó – của luật tiến hóa –
Luật tiến hóa xác nhận: từ đâu tiến tới đâu? Nghĩa là từ căn nguyên mà tiến tới giải thoát.

Căn nguyên từ đâu?
- Khởi sự từ thần linh:
Qua lời Đấng Tới Cao (trong Yajur-Veda): “Brahmâ do nơi ta sinh ra, ở trên hết muôn vật. Ngài là Đại-Tổ (Pitâmaha) tức là cha chung của muôn loài, là Đấng tự sinh tự hữu (Svayambhù)”(4), được kể rằng: “Brahmâ say mê một người con gái mình là Samdhyâ (Hoàng Hôn) tức là vợ của Shiva. Nàng Samdhyâ sợ quá phải biến hình thành con hưu cái. Brahmâ bèn biến thành con hưu đực và đuổi theo nàng trên nền trời. Shiva thấy
thế nổi nóng nên bắn một mũi tên đứt đầu hưu đực và Brahmâ phải hiện nguyên hình.”

Và một chuyện khác kể rằng: “Brahmâ say mê một người con gái của mình là Ushas (Rạng Đông). Thần biến nàng thành con hưu cái và phạm tội dâm loàn với nàng.”(5)
“Ngày xưa không có thần thánh chỉ có Trời và Đất thôi, Trời và Đất là bậc phụ mẫu đầu tiên sinh ra giống người khổng lồ Titans. Giống người này cai trị thế giới hằng bao nhiêu thời đại. Sau cùng các vị thần, con của giống khổng lồ Titans này nổi loạn và lật đổ họ. Thần Zéus là chúa tể toàn vũ trụ, vợ và cũng là em của thần tên Hera trở thành hoàng hậu.”(6)
Thần thì vô Đạo. Đành hanh thô lỗ. Đố kỵ hằng thù. Dâm dục vô luân. Cái bản năng ấy khi nó đã chuyển qua hợp đề nó vẫn còn đậm nét nơi loài thú hoang: cha lấy con, con lấy mẹ, anh lấy em. Xử với nhau theo “luật rừng”: khôn sống, mống chết.
Cái đám Titans mất dạy đó vẫn còn thua xa bọn Satans khốn kiếp ngày nay. Và chúng đều được thờ. Là thần mà! Sao không?
Nhưng chúng chỉ có khổ đau và đau khổ!
Phản đề là loài người: đã bước một bước tiến hóa, bớt đi cái vô đạo bạo ngược kia, tức tiến tới một trình độ có văn hóa hơn. “Hình thức con người cao siêu hơn hình thức thiên thần”[Vivekananda]. Và Vikananda dẫn chứng: “Du già sư Patanjali của ta viết rằng: “jâtyantara parinâmah prakrityâ-pùrât = “giống loài này (jâti) hóa thành giống loài nọ - tiến hóa. “Parinâmah” có nghĩa là vật này thành vật nọ cũng đúng như giống này thành giống nọ”(7).
Cứ mỗi một phản đề tức một bước hóa văn, gọi là tiến hóa. Lương Tri chính là cái phần thưởng xứng đáng mà “thần” nào gây nghiệp tốt được hưởng, tức được tái sinh thăng cấp “làm người”.
Người mà vô đạo, tức mất đi cái nhân tính làm người của mình thì kiếp tái sinh của nó sẽ trở về chốn cũ, nghĩa là trở lại với bản năng thần linh của mình. Cái bản năng vô văn hóa hằng có đó.
Nhưng nếu nó biết ăn ở hợp đạo người, nó cũng sẽ không biến chuyển gì hơn; nó lại phải ở kiếp người vĩnh viễn. Theo đạo người thì chỉ có làm người thôi. 
Chỉ khi nào nó phá vỡ được cái đạo nhân ấy, cái đạo lấy lương tri làm chuẩn mực, làm căn bản gọi là nhân bản đó thì nó mới hòng thoát khỏi kiếp nhân sinh.

Loài thú là loài ý thức về hành vi của mình mờ nhạt hơn. Cái tạo nghiệp chính là cái ý thức. Mất ý thức về sự phân biệt nhị nguyên “thiện – ác” là đạt Đạo Muông. Còn phân biệt Đúng-Sai là còn vô minh là còn trụ ở đạo người.

Hành động thế nào cho phi-thiện – phi-ác, tức phải thoát khỏi cái lương tri thì mới không còn gây nghiệp nữa. Không còn gây nghiệp mới tới bờ giải thoát. Vì gây nghiệp thiện sẽ hưởng quả thiện, gây nghiệp ác sẽ hưởng quả ác tức là còn ngu độn, ngu lậu, còn mờ tâm vì màng vô minh chưa bị phá tân thì vẫn cứ bị bánh xe luân hoán nó quay đều…quay đều… vòng vo mãi mãi…viên mãn!

Một khi nó không còn vô minh trong cái vòng luẫn quẫn nhị nguyên thiện-ác nữa, nó đạt cảnh vực phi-nhị-nguyên tức đạt đến đích điểm chuyền hóa luân thì sẽ được thảnh thơi bước thêm bước nữa. Nó không còn kẹt vào cái lương tri nữa, nó sẽ được lai sinh vào kiếp muông.

Là thú thì nó ít gây nghiệp nhất vì nó đang trong tình trạng phi thiện – phi ác. Đứa nào còn vô minh, còn phân biệt thiện-ác, nghĩa là còn ý niệm nhị nguyên thì lộn trở về làm người, nơi còn cái lương tri để phân biệt cái đúng cái sai, cái thiện cái ác.Tri thiện, tri ác, tức thị lương tri” [Dương Vương Minh] mà ẩn dụ là Cây phân biệt điều thiện và điều ác [Cựu Ước].
Cái “Lương Tri” chính là sản phẩm hóa văn độc đáo vô nhị mà con người thâu hoạch được trong quá trình tiến hóa bước một bước thăng hoa làm Người. “ Lương Tri là Đạo Người”

Đạo Nhân là của người, Đạo Muông là của thú.

Nếu vẫn cứ ở trong cảnh vực bất nhị thì thú cũng hoàn thú không thể chuyển hóa luân để tiến hóa được.

Từ động vật sẽ chuyển thành thực vật.

Động vật tính là xích xiềng, và giải thoát là bức xiềng xích. Sợi xích thằng của nó là sự luyến ái – một mảng nhỏ của nhị nguyên: còn yêu tức còn ghét. Còn đành hanh, còn dành lãnh địa, dành cái, còn ngoại tình như
các nàng đà điểu…là còn xúc động tình cảm: vẫn còn thương yêu, đùm bọc, chở che con cái. Tình yêu in dấu ấn từ thần linh đến con người và còn lưu truyền tới muông thú; như hợp đề vẫn còn hơi hướm của phản đề và tiền đề phản phất lại.

“Ai có một trăm tình yêu, sẽ có một trăm đau khổ;
Ai có chín mươi tình yêu, sẽ có chín mươi đau khổ;
Ai có tám mươi tình yêu, sẽ có tám mươi đau khổ;
Ai có một tình yêu, sẽ có một đau khổ,
Và ai không có tình yêu nào, sẽ không có đau khổ
[Udâna, VIII,8] Đức Phật đã nói như vậy!

[“Sans amour : không tình yêu
Sans souci : không âu lo
Sans problème” : không rắc rối - (lời của một ca khúc Pháp) -]

Con nào đột phá bức xích được cái nhị nguyên mơ hồ đó: đẻ con ăn con, không đôi không cặp không vợ không chồng – không xúc động luyến ái: đơn giản chỉ là tình dục. Ái ân thôi! Không cha không mẹ: chỉ vì tình dục mà tôi được sinh ra theo nguyên lý sinh học thôi. Ấy, khi ấy nó mới thoát được kiếp động vật, chuyển sang kiếp thực vật.

Thực vật có sinh hồn mà không có giác hồn, cho nên nó chỉ có mỗi nhiệm vụ sinh sản là cùng. Sự đành hanh giảm đến mức epsilon, luyến ái quan bị triệt tiêu. Nhưng đứa nào còn tham sống, sợ chết thì chịu khó ở lại làm thực vật tiếp. Chính Nguyễn Công Trứ muốn quá độ, đốt giai đoạn, nhảy chồm qua kiếp động vật mà nhào thẳng vào kiếp cây cối: “Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” Đấy, không phải thăng hoa sao?

Nhưng thực vật hãy còn cái đà sống [élan vital] trong cơ năng sinh hoạt [fonctions vitales] nên đàng nào nó cũng còn tính phản ứng sinh hoạt [réactions vitales], chi cho nên nó cũng còn thụ hưởng và tham sống.

Nó vươn ra tìm ánh sáng, rễ hút chất màu: tranh hết quyền lợi sự sống của những đứa khác: đứa đó ở lại làm thực vật tiếp muôn kiếp.

Đứa nào chịu bó tay tĩnh tịch không tranh giành chi hết cho nên không lưu nghiệp – xem như thua keo này gầy keo khác – sẽ tiến hóa qua kiếp lai sinh tốt hơn. Bước kế tiếp của nó là khoáng vật.

Đến khoáng vật thì không còn gọi là đời sống nữa. Không sinh hồn. Không giác hồn. Không sinh. Không tử. Đây mới là đến cái cảnh vực “tịch nhiên nhi nhiên”. Nhưng vẫn còn hiện hữu. Vẫn còn hữu thể. Đây là giai đoạn sau cùng để bốc hơi. Giai đoạn êm ã nhất, bình yên nhất; không còn sợ trở lui nữa, chỉ có tiến tới. Tiến tới GIẢI THOÁT!

GIẢI THOÁT ở đây đồng nghĩa với HAO MÒN. Cứ hao mòn…hao mòn dần cho đến khi nào hết thì thôi.

HẾT là GIẢI THOÁT.

Như Đức Phật so sánh : như hòn núi kia mà lấy khăn lau, lau cho đến bao giờ nó mòn hết đi là giải thoát. Chỉ còn ý nghĩa thời gian.

GIẢI THOÁT là VÔ…VÔ là HẾT… HẾT là VÔ.

Giảng tới đây diễn giả bị chất vấn:
- Giữa thần và người có mối liên hệ nào không?
- Có chứ: thần nhân!
- Giữa người và động vật có liên quan gì với nhau không?
- Có chứ: loài linh trường
- Giữa động vật và thực vật có giây mơ rễ má gì nhau?
- Có chứ: loài cây ăn thịt sống!
- Giữa thực vật với khoáng vật lại có ăn nhập gì?
- Có chứ: loài san hô!
Cử tọa : Ừ nhỉ!

Diễn giả tiếp: Sự chuyển hóa bao giờ cũng mang tính liên tục. Đứt đoạn là hết. Có bao giờ sự sống đứt đoạn mà sự sống vẫn tiếp tục tồn tại? Cho nên chuyển kiếp dù từ chủng loài này đến chủng loài khác cũng vẫn tồn lưu cái tiền kiếp, nói như triết giáo nọ, đàn bà mà có lên thần đi chăng nữa thì cũng phải trải qua kiếp đàn ông đã (*), rồi muốn thoát đi đâu thì đi.

Chuyển kiếp chính là phản đề, thì trong phản đề vẫn còn cái hơi hướm với tiền đề chứ không bao giờ quay lưng làm ngơ giả không quen biết với tiền thân của mình.

Đó là qui luật! Không có cách nào khác!

Con đường một chiều (one way) không có cửa cho bất kỳ loại ưu tiên nào.

Qui luật này duy nhất, bất biến, thường tại và bền vững miên viễn.

Ấy cho nên cái giao thoa giữa hai chủng cấp có chủng loài trung gian.
Giữa thần linh và người thì có loại thần nhân: bán thần bán nhân!
Giữa người và thú thì có khỉ-vượn-đười ươi. Và thử quan sát một giai đoạn nhỏ của tiến trình tiến hóa giữa người thành vượn thì có loài: người không ra người, ngợm không ra ngợm!

Giữa muông thú và cây cỏ thì có loài thực vật ăn thịt sống: nữa thực vật nữa động vật.

Giữa thực vật và khoáng vật thì có loài san hô: có ăn, có sống, có sinh, có tử.

Đến khoáng vật thì bất sinh, bất tử: chỉ có hao…mòn…cho đến…hết!
Chính cái tính thể bất sinh bất tử nơi khoáng vật mới là cái đà vọt vào cái VÔ, là cảnh vực thường tại của bất sinh bất tử.

Khoáng vật là trạm dừng cuối cùng trên cuộc hành trình về giải thoát.
Và ta nhìn lại con đường vạn lý trường chinh đó ta mới nhận ra cái chuỗi sự sống được nối kết bền chặc với nhau qua những mắt xích liên kết chặc chẽ của tính liên tục. Chủng tử tiềm phục trong bản ngã sự vật, nói như
khoa học ngày nay là cái gène nó lưu truyền theo giòng sự sống bền vững trong tính thể của nó – nói một cách khác, nó tiềm ẩn trong mỗi hữu thể dầu cho hữu thể đó tiến hóa ra sao nhưng nó vẫn cứ miên tục thường tại hằng hữu; cho nên nó bảo vệ được tính liên tục. Đó là chủng tử sự sống.

Dù cho nó chuyển qua khoáng vật, nó cũng chuyển một cách êm ã nhẹ nhàn từ sự sống sang bất tử như cái khoản lặng trong âm nhạc. Cái khoản lặng êm dịu đó chỉ là sự chuyển tiếp vào một giai điệu khác thành một biến tấu mới trong cái hòa điệu vĩnh cửu.

Diễn giả lại bị cật vấn nữa:
Hỏi:- Ông nhiều chuyện quá; nói huyên thuyên hòng đánh lạc hướng người nghe chứ gì? Ông dấu đầu mà chỉ cho lò cái đuôi. Tắt một lời, ông trả lời câu hỏi muôn đời này: “ Ai sinh ra thần?”

Trả lời: - “Ai biết được đích xác, ai có thể nói rõ nơi đây xem sự sáng-tạo này phát-xuất tự nơi đâu? Các thần-linh ra đời sau sự sáng-tạo thế-gian này, vậy ai biết do đâu mà có sự sáng-tạo?

“Sự sáng-tạo do đâu mà có? Có hay không có sáng-tạo? Chỉ có Đấng Cai-quản thế-gian ở trên tầng trời cao nhất là có thể biết được, mà có khi chính Ngài cũng không thể biết nữa.”(8)

Hỏi: - Ko Veda? Ai biết? 

Trả lời: - Ông chứ ai!

Câu trả lời chấm dứt câu chuyện.
¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤
(1).- Thiền Sư MUJU-Đỗ Đình Đồng dịch-“ Góp nhặt cát đá”-tr.115-116-Lá Bối xb.Saigon-1972-

(2).- dẫn từ “Bước vào hy vọng” của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II….Câu hỏi đầu tiên này làm cho tôi nhớ ngay đến lời huấn dụ khi tôi mới bắt đầu sứ mệnh của tôi trên ngai tòa Phêrô: “Anh chị em đừng sợ!”…Lúc đó tôi có thể tự nhủ: Đừng sợ khi người ta gọi mình là Đại Diện Chúa Kitô, khi người ta gọi mình là “Đức Thánh Cha”, hay khi người ta dùng những từ ngữ tương tự như vậy, cho dẫu những từ ngữ ấy có vẻ trái ngược với Tin Mừng. Thật vậy, chẳng phải Chúa Kitô đã từng
nói: “Anh em đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để cho ai gọi mình bằng Thầy, vì anh em chỉ có một vị Thầy là Đức Kitô” sao?(Mt 23,9-10). Tuy nhiên, những từ ngữ này được xây dựng trên một truyền thống lâu đời và đã đi vào trong ngôn ngữ thường dùng, và ngay cả những từ ngữ này ta cũng không nên sợ.
 [Bước vào hy vọng – Nhóm Tin Yêu dịch – tr.28-30].

Đức Jésus há chẳng biết “những từ ngữ này dược xây dựng trên một truyền thống lâu đời và đã đi vào trong ngôn ngữ thường dùng của người Do Thái sao”? - Ơ, hay đó bay!

Ngài là Ngôi Lời, và Ngài đã từng nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi”.[Mat.24:35]- Nhưng với bọn phù thủy [lời Đức Phật] thì mặc cho đó là Tin Mừng thì Ngôi Lời cũng ngũm!

(3) “Vị đại pháp quan tôn giáo” trong “Anh Em nhà Karamazov –tr.285- Vũ Đình Lưu dịch – Nguồn Sáng xb-

(4) Ba Ngôi Tối Linh – Brahmâ, đấng Sáng-tạo – tr.79 – [Lê Xuân Khoa – Triết học nhập môn Ấn độ - Trung Tâm Học Liệu-Bộ GD. Xb-1972-]

(5) chú thích (4) –tr.81-82

(6) Doãn Quốc Sỹ: [“Thần thoại © tr.44-45- Sáng Tạo xb.]

(7) Vivekananda-[“Tôn giáo là gì”-tr.117-Vương Gia Hớn dịch-An Tiêm xb.1970]

(8) Rig Veda X:6,7 [sách dẫn trên(4)-tr.200-]

(*)-Trong Kinh Sách khác cũng để lại dấu ấn không mấy tốt đẹp về thân phận người phụ nữ: “Nói một cách đại khái thì, đối với việc tu đạo, Phật quan niệm rằng phụ nữ kém nam giới, đó là một sự thật, cứ xem trong các kinh điển có nhiều chổ nói về những nhược điểm của phụ nữ cũng đủ rõ.”[tr.312-“Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận”-KIMURA TAIKEN].

Và “Duy về phương diện pháp tướng thì giữa nam giới và nữ có sự khu biệt. Chẳng hạn, một trong những sự khu biệt đó là đàn bà không thể là Như Lai (và Chuyển-Luân-Thành-Vương).[tr.313-sd-]

Và “Nếu nói theo pháp tướng, thì đàn bà, nếu kiếp sau sinh làm đàn ông, sẽ có thể làm Như Lai (và Chuyuển Luân Vương). Như vậy, đàn bà kém đàn ông chẳng qua cũng chỉ cách nhau một kiếp mà thôi. [tr.314-sd-]

Như lời Nguyện (thứ 35)của Đức Phật A Di Đà: “Tôi thành Phật rồi, nguyện cho hàng phụ nữ trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, bèn ra sức tinh tấn mà trì niệm, phát tâm tu đến thành Chánh giác, nhàm chán sự luân hồi làm thân phụ nữ, như vậy nếu về sau có sanh ra nữa, thì khỏi mang thân phụ nữ.”[tr.129-“Các tông phái đạo Phật”-Đoàn Trung Còn-xb,Thuận Hóa-1995].

-“Tóm lại, nếu xử lý về phương diện hình thức thì, dĩ nhiên, đức Phật đã coi phụ nữ kém nam giới.”[tr.316-NTPGTTL-sd. trên]

Vài lời bạt: Từ ngữ “ cảnh báo” và “chỉ ra” ở giữa trang đầu, mở đầu việc trình bày thuyết dớ dẫn nào đó đảo chánh Newton và Einstein là chôm của tác giả lập thuyết đó chứ người viết bài này đố cha nó dám lếu láo thế. Xin trình.
Và cảm nhận từ huấn dụ Anh chị em đừng sợ ” của GH. Jean-Paul II, người viết xin có bài vè đính kèm biếu bạn đọc cho bớt khô cổ sau khi đọc mấy trang trên, xem như khuyến mãi: 
- Đá Chanh:
Đá chanh uống cho thanh giọng
Cho thông vọng ngữ, cho thuần vong ngôn
Cho lộn dây lái dây lèo
Cho Hiếu Đạo cũng tùng phèo dây cương
Giêsu Ma!!! Giêsu Ma!!!
Ai là cha??? Ai là cha???
Đá chanh
Đánh cha
Bất hiếu

Cương thường đứt dây!