Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

" Ư "


Các bạn mà có xấu trai như tôi thì các bạn cũng đừng có nãn chí. Không chuyện gì phải bi quan hết!

Giả như, nếu bạn có bị xe tung, chưa sao: bạn còn bệnh viện mà! Bạn sẽ được cứu chữa thôi. Nhưng bạn có rũi ro mất đi một cánh tay? Còn cánh tay kia mà…có gì phải quắn quýt? Nhưng nếu bạn lại chỉ còn có một chân? Bạn có tứ chi mà, bạn chỉ mất có phân nữa thôi, phải không? Miễn là bạn vẫn còn sống. Chúc mừng bạn!

Xin lỗi, nếu đáo cùng bạn nhẹ bước vào cõi “bên kia”(au-de-là) - Xin chúc mừng bạn! - Bạn vừa đựơc giải thoát! Niềm mong ước bao lâu nay của bạn phải không? Đó là “tử kỳ hữu định”. Lạy Chúa, cảm ơn Chúa! Khi ấy chắc bạn tạ ơn và nói: “ Xin vâng!” [Fiat]

Cái quần, cái áo, đôi dép còn có số nữa là! Xe bạn cũng có số, nhà bạn cũng có số, điện thoại bạn cũng có số và chính bạn cũng có số đó: cái ID card (Căn Cước) của bạn đấy. Bạn cũng như tôi đều đã được định đoạt từ đời đời rồi. Ngài là Tình Yêu lân mẫn và Quan Phòng; vậy chớ ngại bạn không được lo toan. Chim trời có lo gì đâu! Nhân dân cũng đâu có “no”, có Nhà nước “no” rồi.

Số hay Định mệnh hoặc là Ý Chúa thì cũng same same cái Nghiệp thôi! Chẳng qua là từ ngữ. Đến thời điểm đó là hết nghiệp thì tất yếu theo đúng qui luật bạn được “ chuyển” thôi. Bạn có chết đâu mà lo! Bạn lại tiếp tục Tour du lịch mới. Bon voyage!”: Lên đường bình an và xin bảo trọng!

“Lý” vậy để bạn an tâm về cái sinh mệnh. Vui mà sống! Sống vậy mới vui!
Còn như ở mào đầu, tôi khẳng định “xấu trai như tôi cũng đừng có lo” là “luận” về cái duyên.

Có khi nào bạn đã nghe câu danh ngôn: “Đẹp trai không bằng chai mặt” chưa? Đó, có xấu như tôi bạn cũng đừng có lo là vậy. Vậy là…là vầy:

Nghĩ lại mới thấy mình liều: hồi đó còn trẻ, còn hăng, còn lăng xăng; cái háo thắng mắng cái nhát gan chứ không như bây giờ cái gan còn ngang tàng hơn háo thắng. Bạn cứ tin tôi đi: nhân định thắng thiên mà! Bạn cứ quyết đi. Hãy gõ, cửa sẽ mở! Mà vậy thật, thưa bạn.

Xin sẽ được”. Tôi đã gõ. Không xin biết ngứa đâu mà gãi? Và tôi đã gãi đúng chỗ ngứa. Nhưng khi ấy vì không lượng sức nên tôi đường đột phát biểu tiếng “Yêu” quá sớm mà bị nàng “Ứ” một cái cắt!...rồi ngước mắt ngoảnh mặt làm ngơ. Nàng đếm sao!

Kinh nghiệm tình trường của nhân loại tôi học được là: đừng có nãn! Thất bại keo này, ta gầy keo khác.

Tôi làm theo với châm ngôn: thất bại là mẹ thành công. Ít nhất đến giai đoạn này: chưa thành công thì phải thành nhảm thôi. Muốn đi tới đích, không được chùn bước! Đến lúc này phải làm chính trị vậy: chính trị là phải lỳ! Ve gái cũng cùng sách với tuyên truyền, nghĩa là, nói như Hitler: tuyên truyền như quảng cáo thôi, đâu cần sự thật! Sách của Machiavelli đấy! Sách dạy: dầu là sự việc không có thật, nhưng cứ khẳng định; lúc đầu bị phản đối đấy nhưng cứ lỳ đi, nói nữa đi sẽ dẫn “người ta” đến chổ nghi ngờ là thành công một nữa rồi. Không nao núng, cứ tiếp tục khẳng định rồi “người ta” sẽ bị lung lạc. Từ chỗ bán tín bán nghi đó mà bạn càng khẳng định như đinh đóng cột thì mối hoài nghi dần dần tan như sương mù buổi sáng.

Rồi, sáng sủa rồi đó bạn. Cố lên! Cố lên! Bồi thêm ít nhát thề nguyền nữa bạn sẽ nhận được hiệu quả: “người ta” tin là thật ngay.
Trên tình trường của bạn, bạn đã tung đòn quyết định này rồi chứ: “Hứa”? Thề và Hứa là sức mạnh tạo niềm tin, và chính đó là mùa thu hoạch của bạn đấy.

Lỳ có cái giá của nó, đắt lắm đó bạn. Lỳ là cái kỹ thuật mặt dày mày dạn của chính trị mà bạn đem nâng nó lên thành nghệ thuật chiêm gái thì hết sẩy. Đó là nghệ thuật câu cá – câu rê - đấy. Cứ “rê” con mồi đi từng đoạn, từng đoạn cho đến khi nó đớp mồi (vẫn bình tĩnh và nhẫn nại chờ thời vơ chín mùi)…và phải chờ cho nó nuốt mồi đã. Rồi đó! Giựt mạnh! Hết sẩy!

        Tôi đã học được bài học này là nhờ hồi còn nhỏ đi theo Ba tôi câu rê và khi lớn lên tôi đã nghiệm ra. Áp dụng cái triết lý lỳ và nghệ thuật câu rê, chờ đến khi đối phương cắn câu thật mấp, tôi lặp lại cái phát biểu ban đầu ấy: “Yêu”, và tôi đã đấu được cái giá đã trả: nàng “Ư” khe khẻ. Mặt không còn nghếch cao như xưa nữa, mà hơi hơi cúi xuống, một chút e-ấp, hơi lúng túng, ấy là biểu hiệu “tình trong như đã, mặt ngoài còn e!”. Thấy chưa? Bạn thấy chưa?

Nhưng chưa đâu. Còn bao nhiêu suối…Còn bao nhiêu đèo…Còn bao nhiêu ải…Phải còn lai rai gìa mồm, dẽo mép nữa bạn ơi! Kinh nhiệm uống rượu cho ta bài học xương máu: nhâm nha nhâm nhi từ từ rồi nó cũng nhừ...nó cũng thấm hồi nào không hay…Chờ đến khi họ “xĩn” thì chỉ cần một cú hảy nhẹ là té liền. Ngã gục thôi! Và nàng phải nói tiếng “Ừ” trọng đại (le Grand Oui) ấy.

Nghe thương lắm. Nàng bày tỏ khúc nôi:
“ Ngó lên chữ
Ngó xuống chữƯ
Anh thương em thủng thẳng em
Chớ đừng thương vội mà mẫu từ em hay” [Ca dao]

Rồi, nàng đã dính câu biết đâu mà gỡ; chàng đã vào lồng biết thuở nào ra?
Hể hám buộc ràng vào luyến ái ắt lọt vào vòng khổ lụy. Cái vòng cong cong ấy, kẻ mong bước vào người hòng bước ra. Đó là cái chết êm ái của con thiên nga phiêu bạt thẳng cánh đo trời ái ân!
Gieo nhân ái, nhặt trái khổ qua!

Thôi thì thôi nhé xin chừa ngàn năm. Chừa hết cái vô thường dukkha. Ôi chốn ta-bà lắm tà-ma. Xin theo Gautama vào miền sukha.(hạnh phúc)
Giọng thương gia thì “cho vàng chứ không chỉ đàng đi buôn”; thế nhưng Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu-Ni thì không cho vàng nhưng chỉ đàng cho đi giải thoát: Thoát khỏi vòng ái nhiễm thiên cổ lụy! “Bây giờ nếu bạn không có gì lưu luyến với người đó, nếu bạn hoàn toàn không dính mắc, thì đấy là tự do, đấy là giải thoát (nissarana).”[W.Rahula: “Tư Tưởng Phật Học”- Thích Nữ Trí Hải dịch-tr.29- Tu thư đại học Vạn Hạnh xb.1974-]
Như một ca khúc Pháp: Sans amour  (không tình yêu)
                                      Sans souci       (không phiền muộn)
                                      Sans problème (không gì phiền toái)

Và thưa bạn, đã theo Ngài, với Ngài thì đừng đu ngón tay Ngài mà hãy theo hướng ngón tay Ngài chỉ, và nhất thiết dù là lời Ngài [như Ngài đã từng dặn] cũng chớ có tin mà hãy tĩnh sát xét cho kỹ, đúng rồi hãy theo. Vậy điều khôn ngoan là nghe chứ đừng có tin những gì Ngài nói và hãy nhìn kỹ những gì Ngài làm là chắc ăn nhất; vì đó là tấm gương, là đuốc soi đường, là ánh sáng, là sự thật. Chân lý là đây:
Ai có một trăm tình yêu, sẽ có một trăm đau khổ;
Ai có chín mươi tình yêu, sẽ có chín mươi đau khổ;
Ai có tám mươi tình yêu, sẽ có tám mươi đau khổ;
Ai có một tình yêu, sẽ có một đau khổ,
Và ai không có tình yêu nào, sẽ không có đau khổ.”(Udâna,VIII,8) Đức Phật nói như vậy.

Tất cả mọi tình yêu đều là nguồn đau khổ, đều là xiềng xích; chí đến tình cha con, tình vợ chồng huống chi nói đến ái quốc, ái quần…tất tất là chướng ngại ngăn đường cản lối về giải thoát.

Chính Đức Phật kể lại cho chúng ta nghe như sau trong Kinh Xa Đà Gia tức bộ kinh thuật lại những tiền kiếp của Ngài. Tích ông hoàng Vessantara (là Ngài) bị vua cha đuổi ra khỏi cung chỉ vì vị hoàng tử này bố thí quá tay. Trên đường lưu vong Ngài cho hết không còn gì, chỉ duy sót lại có vợ và con; và Ngài kể tiếp cái công đức sau cùng: “ Khi thấy người hành khất bước tới để xin hai con của Ta, Ta mỉm cười dắt hai trẻ mà bố thí cho người ấy. Sau đó ít ngày, thần Indra, tức Sakka, mượn hình một thầy Bàlamôn hiện đến xin Ta nàng Maddi(vợ). Ta dắt tay nàng và trao cho thầy làm của bố thí. Khi đó trời đất vui mừng, những tràng hoa bay khắp trời vì Ta đã bố thí hai con Ta và cả người vợ hiền của Ta, bởi vì Ta không tiếc xót chi, miễn là ta đạt được Chánh quả và thành Phật.” [Crryâ-Pitaka,I,9- Oldenberg, Le Bouddha. tr.298-299].


Ớn xương sống chưa?

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2016

Thú tủi nhục

Bạn có bao giờ bạn thưởng thức cái thú đau thương chưa? Cái thú được mất người yêu, được vợ/chồng “có trăng quên đèn” ấy. Cái cảm xúc mạnh trác tuyệt đó đã dệt thành bao fleurs du mal cho đời.

Hồi còn trai, bọn chúng tôi đứa học sinh, đứa làm sở Mỹ, đứa sinh viên ở chung một căn gác thuê trên đường Trần Bình Trọng; chúng tôi thường gọi gác trọ đó là the house of the rising sun.

Và một hôm má của một đứa đến để cung cấp tài chánh và cũng để xem nó sống thế nào, bà nhận xét chúng tôi: tao không hiểu tại sao tụi bay lại thích “đào bỏ” để làm thơ sướt mướt? - Chúng tôi trả lời: má ạ, “có bột mới gột nên hồ”, cần phải có hiện thực thơ mới hay. - Bà bảo: thế thơ không có nước mắt nước mũi không hay à? lệ gì phải có đau thương mới thú? Tại sao tụi bay thích ngứa rồi gãi mới sướng? không ngứa có sướng hơn không?

Có ngứa mới thưởng thức đượcc cái “đã”; không ngứa sao biết “đã” là gì. Đau thương là ân sủng của trường tình, lệ gì hạnh phúc mới là ân huệ, hả má? Tội còn có tội hồng ân nữa là!

Thôi, tao chịu thua bay đó bay, cái vụ này mới quá, tao theo không kịp. - Chúng tôi thưa: vụ án này đã có từ thuở hồng hoang lận má, chí đến giờ cũng còn lai rai khá đông người tự hành xác mình hết sức thích thú và đầy tự hào nữa. Họ đấm ngực mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa (lổi tại tôi, lổi tại tôi, lổi tại tôi mọi đàng) để ăn năn hối lỗi của mình. Không phải họ chỉ đấm có ba cú mà thôi đâu, họ đấm lia lịa cả hai tay vào ngực bên phải vào ngực bên trái để rũ cái nghiệp nữa đấy. Họ còn lấy cả roi đánh vào thân thể cho rách thịt tươm máu ra mà họ còn chưa “đã”; họ còn nhờ người khác quất phụ cho toạc màng vô minh là khác. Nghe tới đây, má xanh mặt!

Chúng tôi cố thuyết phục bà nữa, chứ nếu không, sẽ không có thơ sụt sùi cho đời - mất đi một mảng văn học ẩm ướt, khô héo đi một mảnh triết học chèm nhẹp…- dẫn đến sự tàn lụi các lò tôn giáo!

Cái thú đau thương không phải là chuyện nhỏ đâu bạn, là vụ án lớn rồi. Vì đời là bể khổ mà: “Mới sinh ra thì đà khóc chóe. Đời có vui… sao chẳng cười khì ?”[Nguyễn Công Trứ]. Chào đời bằng tiếng khóc là xác nhận thân phận con người, là khẳng định mình. Khẳng định gì đây? – Sinh ra là đã mang tội rồi! Tội gì? – “Nhân chi sơ tính bản thiện” cơ mà. Không, -“Nhân chi sơ tính bản ác” cơ đấy. Nhân chi sơ tính bản thiện thì vạ gì mới sinh ra thì đà khóc chóe? Chỉ có nhân chi sơ tính bản ác thì mới chuốt vạ vào thân nên chẳng cười khì là vậy. Nguyên lai cái ác từ đâu ra mà mới chào đời đã phải lãnh đủ? Trước hết là do Mẹ Eva di lưu, sau nữa là do cái nghiệp của kiếp trước lưu đày, nên mới bày ra cái bể khổ nhân luân.

Không có lửa sao có khói? Có sinh sự mới có sự sinh chứ! Bằng chứng chắc thực như vậy, chi cho nên thành thực khai báo “tiên trách kỹ” để bằng lòng nhận cái nghiệp quả cho thêm hào hứng trả nợ. Trả nợ mà bị đòi, bị thúc, bị xiết, bị cưỡng chế…sao vui bằng tự nguyện. -Trả nợ mà vui? –Sao không? Bạn chưa có kinh nghiệm à? Mình trả nợ đúng hẹn thôi không cần sớm hơn; lòng đã thấy thanh thản, ngẩng mặt nhìn đời tự tin hơn, trong đó có chút tự hào len lén chui vào nữa là đàng khác và khi gặp lại chủ nợ tay bắt mặc mừng vui vẻ cả làng.

Có trãi nghiệm chuyện trả nợ đời mới cảm thông được chuyện trả nợ nghiệp. Có thể có khác đấy, nhưng giống nhau ở niềm vui. Khi mình nhận cái nợ là đương nhiên thì việc trả nợ là tất yếu sẽ tạo cho mình cái cảm giác thảnh thơi nhẹ nhàn vui thỏa vì không còn vướng cái mặc cảm chúa chổm nặng chình chịch như đeo đá vào cổ - mà ở đây là mang xiềng trong tâm – thì đau khổ là dường nào! Mang nợ mà nhờ người khác xin giùm, dầu nợ có được xóa đi chăng nữa, lòng vẫn cứ còn áy náy băn khoăn ray rức như thể có cái gì chưa công bằng, hơi một chút gian lận, lẫn một tí tiêu cực ở chỗ ỉ lại ù lì. Thua cái hùng tâm: dám làm dám chịu!

Dám chịu nên mới dám tự thú mea maxima culpa và can đảm thừa nhận nghiệp quả: không đổ thừa cho ai hết, cho hoàn cảnh nào hết…Người khác giải tội cho mình, giải oan nghiệp chướng cho mình sao bằng mình tự giải ách cho mình – cái ách của chính mình tự buộc vào –

Đời cho ngon, đời phải đủ vị đắng cay, chua, chát… me chưa đủ chua thì thêm chanh; chanh chưa vừa thì gia dấm vào. Phải học Tôn Ngộ Không: phân thân ra làm Không Tôn Ngộ để bày trận gà nhà bôi mặt đá nhau; xỉ vã nhau cho đã cái miệng, cho sướng cái ý, cho vừa cái tâm, cho toạc màng vô minh mới thâm trầm giáo lý. Phải lên núi, vào rừng, tận hang sâu cùng cốc…sống cùng muông, vui cùng thú cho thấm vị tân toan. Chưa đã thì ngồi một chổ, đứng một giò, hay ho nữa là không tắm. Đủ trò, lắm cách! Nếu không vào rừng thì đóng quan tài tối ngủ, ngày đào huyệt mà gẫm mà suy mà đì cái thân cho sướng cái ý; thế mới là thi vị.

Cái thú không phải sướng cái thân mà dần cái phận để hưởng cái phần về sau. Chính đời sau mới là cái đời chính. “Thả con săn sắt, bắt con cá rô” là vậy. Vậy sao không tận hưởng cái thú thả hồn vào tủi nhục đọa thân cho tâm hồn lâng lâng giải thoát?

Thế nhưng không có con vật nào khôn bằng con người. Kìm kẹp xác thân sao cho thanh, sao cho lịch, sao cho thú cái miệng, sao cho thích cái ý; thế đời mới biết tay! Món chay phải gợi được cái vị giác thèm thuồng như thí nghiệm của Povlov: phải có chả, phải có nem, phải có đùi gà…mới hả cái dạ hãm khẫu cho ngọt cái đạo, cho bùi cái đời…ấy là đưa cái đời vào đạo! Chí đến họ phải khiêm nhường rất mực theo ngạn ngữ: “Khôn ăn cái, dại húp nước.” Và họ nhận phần dại về mình để mình được nâng lên nên thịt không ăn nhưng ăn nước thôi. Mặc dù nước là cái cốt của thịt, nhưng…

Người khôn...ăn cái lao xao

Ta dại...húp nước…cái nào ngon hơn!

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

Vô Ngôn Sư


        Như thường lệ, hay đó cũng là mực thước của ông; sau giờ cuối ở giảng đường là ông đi thẳng đến câu lạc bộ thể dục để hồi phục cả tâm sinh lý mà ông đã thải ra sau một ngày căng thẳng. Thường lệ, cũng là thói quen; ông đi đi về về từ nhà đến trường, đến câu lạc bộ chỉ trên đôi chân không mấy khỏe ấy. Cũng chính vì, chẳng những đôi chân mà cả thân thể ông hình như có dấu hiệu cũ mòn, nên ông vận dụng con đường đi để biến thành con đường dưỡng sinh. Để thực hiện mục tiêu, ông dời ngôi biệt thự ở Thủ Đức về thành phố - ở gần trường - bằng một căn nhà nhỏ nhưng khá tiện nghi trong khu yên tĩnh đường Nguyễn văn Thủ, Q.I. Kế hoạch này đã tỏ ra có hiệu lực, vì cả chục năm nay sức khỏe của ông dù có tuân thủ qui luật của thời gian nhưng hết sức tiệm tiến chứ không như một vài đồng liêu cùng tuổi như ông, cái tuổi lai rai đó.

        Cũng theo lệ thường, sau buổi tập ở câu lạc bộ; ông về nhà và ôn lại các thao tác một cách nhẹ nhàng với mục đích cho ráo mồ hôi để tắm hơn là để nhớ vì mỗi bài tập ở câu lạc bộ không phải là bài học mới mà là những động tác quen thuộc vì tới lui cũng chỉ có dăm ba bài quyền mẫu mực thế thôi. Thế nhưng ông vẫn cần đến câu lạc bộ, vì ông cảm thấy hình như họ và ông có một mối đồng cảm nên ông tìm đến họ để trao đổi, chia xẻ cùng cái mục đích dưỡng sinh ấy.

        Và một hôm, ông trược chân ngã trong phòng tắm; nhưng may thay, cũng nằm trong kế hoạch dự trù, tức sự cảnh giác cao của gia đình: mỗi khi ông hay bà tắm thì người giúp việc luôn luôn túc trực bên ngoài để nghe ngóng động tĩnh…nên hôm ấy ông được phát hiện kịp thời và đưa đi bệnh viện. Ông bị tai biến mạch máu não. Được chính người bạn thân, trưởng khoa tim mạch và thần kinh của bệnh viện trực tiếp điều trị hết sức tận tình nên ông qua khỏi điều đáng tiếc. Thế nhưng việc đáng tiếc còn sót lại là từ đó ông bị liệt nữa người bên trái.

        Với ông, con người của ý chí, đâu phải chỉ vì một chút xíu tai họa như thế
mà ông chịu đầu hàng với số phận dễ dàng! Người bạn bác sĩ trưởng khoa ấy chọn cho ông một nữ y tá vật lý trị liệu về nhà tiếp tục điều dưỡng cho ông, cùng với sự chăm sóc chu đáo của vợ con mà chính họ cũng được bổ sung kiến thức trị liệu thông qua tài liệu và do chính lời hướng dẫn của bác sĩ mỗi lần đến chữa trị. Tổng hợp cả vật lý trị liệu, xoa bóp, châm cứu và luôn cả pháp môn khí công trong các bài thể dục dưỡng sinh nên việc chữa trị của bác sĩ gần như nhiều thuận lợi. Và một hôm, trong số các học trò đến thăm đã mách cho ông còn một phương pháp nữa, đó là nhân điện. Theo người học trò này thì chính người bác ruột của cô cũng bị bán thân bất toại mà chữa trị ở đây chỉ trong

vòng ba tháng đã phục hồi hoàn toàn như cũ. Cô học trò đưa ra tất cả những khẳng định đáng tin cậy. Tất cả các loạt bài báo nói về ông thầy ấy: sự kiểm tra của viện y học dân tộc, hai tay ông nắm vào hai đầu dây điện làm sáng bóng đèn v.v…ông ấy học châm cứu tại viện y học dân tộc và có thời gian chữa trị tại đó. Có thể đó là tin mừng thực sự. Nhân điện thì ông nghe nói nhiều và nghi ngờ cũng nhiều vì có một lần ông thử để tìm hiểu và ông đã hiểu chẳng có tí nhân nào, chẳng có tí điện nào, chỉ toàn lũ điên; còn hiệu quả thì ông để cho mối nghi ngờ của ông khẳng định.

        Nhưng lần này thì ông tin hơn là thử. Gia đình bị thuyết phục và ông quyết định đi thử một lần xem sao. …Trong lúc chờ tới phiên mình, ông nhìn người bệnh nằm trên chiếc giường sắt co rút và tránh né bàn tay ông thầy, có người năn nỉ xin thầy nhè nhẹ cho; cũng có người nhát thì nhảy thoát khỏi giường, kể như đầu hàng. Ông vừa ngạc nhiên vừa thắc mắc…họ bị xung động và phản ứng thật chăng? Chờ đến lúc tay ông thầy thật sự chạm vào các huyệt đạo trên thân thể và luồng điện xung kích vào cơ thể thì mọi nghi ngờ về nhân điện [nhân điện này] không còn hiện hữu trong ý nghỉ của ông nữa. Điện mà không có điện thì sao gọi là điện? Khi ông thầy chích vào khuyểu chân sau đầu gối thì ông tưởng chân ông là cái đùi ếch bị chích điện vậy. Điện thế mới là điện! Bàn tay ông thầy nắm từng ngón tay ông thì ông thốt lên như vô thức chứ ông không chủ ý nói xin thầy nhè nhẹ cho. Thế đấy, ông cứ cách nhật đến điều trị  tại thầy Tư Ngang, xã Trung Mỹ Tây, huyện Hóc Môn này hơn bốn tháng thì ông đi lại  bình thường và mọi sinh hoạt thường ngày trước đây cũng được phục hồi trở lại như thân thể của ông vậy.

        Thế nhưng chỉ hơn một năm sau lại chính các học trò của ông đưa ông đi cứu cấp từ ngay trên bục giảng. Lần này thì mọi nổ lực của tình thương, của y học, của khí công, của bàn tay thầy Tư Ngang cũng đều lộ ra sự bất lực của mình. Ông cũng bị chấn thương động mạch não nhưng không bị liệt cơ như lần trước mà lần này là mất chức ngôn ngữ. Theo bác sĩ chuyên khoa điều trị là do sinh mạch trên não của ông bị gián đoạn làm cho trung khu ngôn ngữ trong thùy chẩm trái của não không nhận được thông tin nên mất khả năng viết và nói. Trong chuyên môn người ta gọi căn bệnh ấy là mất chức ngôn ngữ. Bác sĩ cho biết ông bị chứng thất ngữ lĩnh hội và cả chứng thất ngữ phát biểu.

        Người bạn bác sĩ điều trị cho ông, giải thích: khúc cuộn thứ hai thùy chẩm bên trái của ông bị hỏng, nghĩa là mất liên lạc với điện trường trong não bộ nên không hiểu được ý nghĩa của chữ mặc dù vẫn viết chữ đựợc, gọi là chứng ngôn manh (mù chữ=cécité verbale) khiến người bệnh không thể diễn tả tư tưởng bằng chữ viết, cũng còn gọi là chứng thất thư (agraphie).
         Và không chỉ ông mất khả năng lãnh hội đó, mà ông còn mất cả khả năng phát biểu nữa là vì cả khúc cuộn thứ ba cũng trong thùy chẩm trái ấy cũng mất liên lạc điện trường nên dù vẫn nghe được nhưng không hiểu được ý nghĩa tiếng nói, chứng này được gọi là chứng ngôn lung (điếc chữ=surdité verbale) khiến người bệnh không thể diễn tả được tư tưởng bằng lời nói mặc dù cơ quan phát âm ở cổ ông vẫn nguyên vẹn, cũng được gọi là chứng thất ngôn (anarthrie).

          Liệu ông có chịu bó tay trước hoàn cảnh mới này không. Quả thật ông không ra lệnh được, ông không diễn tả được. Gần như ông nghe mà không hiểu. Kể cả ông không thể làm điệu bộ cho người khác hiểu. Có lần vợ ông vô ý đưa đĩa cơm cho ông mà quên chiếc muỗng, ông chỉ ngồi mà ngó hết người này đến người kia và mọi người nhìn ông như thể chờ đợi ông ra hiệu để yêu cầu việc gì, nhưng ông không làm được cách gì hơn. Đứa con gái út nhìn ngay vào đĩa cơm và nhận ra thiếu chiếc muỗng, cô ta liền đưa đến cho ông chiếc muỗng, ông cười và gật đầu. Không đơn thuần như người câm không phát âm được thì dùng ngôn ngữ điệu bộ; còn ở đây, người mắc chứng mất ngôn ngữ không có khả năng định danh sự vật; vì thế, khả năng diễn tả cũng không còn.

         Vợ ông nhờ người bạn dạy thanh nhạc ở viện âm nhạc đến tập cho ông phát âm để mong phục hồi khả năng phát âm của ông. Vâng, khả năng phát âm của ông rất tốt, ông có thể lên xuống cách quãng một octave rất khỏe. Vấn đề không phải ở hệ thanh quản, cũng không phải ở bộ phát âm lưỡi hay môi răng. Cũng không phải bộ nhớ bị trục trặc, vì lấy một cuốn sách ra và làm thao tác viết  tựa đề cuốn sách ấy rồi đưa cho ông để ông viết lại thì ông hiểu và viết lại không sai. Thế mà ông không thể bút đàm được. Bạn bè ông, học trò ông, vợ con ông thử nghiệm qua nhiều phương pháp mà chưa rút ra được kết quả nào.

         Trong đám môn sinh của ông có cô học trò rắn mắc đề nghị với các bạn, từ nay gọi thầy mình là vô ngôn sư. Không dè sự tinh nghịch ấy đã làm chết danh ông. Và từ đó, không phải chỉ trong đám môn sinh của ông mà cả trường – kể cả hàng giáo sư, thậm chí đến cả hàng xóm nữa, hể khi nhắc đến ông, người ta gọi là vô ngôn sư chứ không còn gọi tên ông nữa.

         Chứng bệnh quả thật là lắc léo. Cơ thể khỏe mạnh. Từ điện tâm đồ đến điện não đồ và cả siêu âm nội tạng đều cho kết quả tốt và ổn định. Duy chỉ có trung khu ngôn ngữ trong não bộ ấy bị mất liên lạc với nhau mà con người đành bất lực. Ông mất đi tính năng động vốn là tư chất của ông, và có vẻ hơi ngơ ngát cũng vốn trái nghịch với cung cách trầm tư của ông nữa.

Là một nhà ngôn ngữ học mà giờ đây lại là người vô ngôn, chắc gì ông chịu đựng nổi tình cảnh ấy. Gia đình, bạn hữu, môn sinh của ông đều lo lắng về việc ấy. Thế nhưng riêng ông, mọi người đều không nhận ra dấu hiệu gì chứng tỏ ông có vẻ buồn rầu cả. Ông vui vẻ, hay cười. Thậm chí ông hay đùa với các cháu của ông. Ra đường ông vui vẻ, niềm nở với mọi người như xưa vậy. Thật khó nhận xét ông có mất đi sự mặc cảm không, nhưng sự lanh lợi thì không còn được như xưa nữa.

         Mất chức ngôn ngữ, con người mất luôn cả khả năng suy tư – điều đó được y học xác nhận.

         Và ngôn ngữ có mối liên hệ hữu cơ tất yếu với tư tưởng. Condillac cho rằng: “ta không thể nói mà không phân tích tư tưởng thành những yếu tố để có thể diễn đạt chúng lần lượt và lời nói chính là dụng cụ duy nhất cho phép ta tư tưởng”. Chính ngôn ngữ là phương tiện truyền thông chuyển đạt tư tưởng từ người này sang người khác, từ thời đại này sang thời đại khác. Ngôn ngữ còn nhiệm vụ lưu giữ tư tưởng phòng khi tư tưởng như bóng câu qua cửa sổ. Nhất là ngôn ngữ chữ viết là công cụ bảo lưu tư tưởng hiệu quả hơn cả. Chính vì thế mà Hamilton cho rằng: “ngôn ngữ là pháo đài của tư tưởng”. Ngôn ngữ cũng đóng góp vào việc phong phú hóa tư tưởng mà Burloud ghi nhận: “chính những chữ mà ta tìm kiếm để phát biểu tư tưởng đã thêm cho tư tưởng sự chính xác cần thiết”.

         Và ngược lại, tư tưởng cũng ảnh hưởng đến ngôn ngữ, chắc là vậy, vì đương nhiên tư tưởng có trước ngôn ngữ, cho nên tư tưởng mới cần đến ngôn ngữ để biểu thị, để phát biểu, để chuyển tải. Do đó sự tiến bộ của tư tưởng kéo theo sự tiến bộ của ngôn ngữ. Mỗi khi có một tư tưởng mới phải cần có ngôn ngữ thích ứng như trong trường hợp Vương Dương Minh muốn nói đến “cái lương tri” mà ông khám phá ra, ông chỉ biết ú ớ “cái ấy” chứ biết dùng từ gì cho ổn; sau ông mới tìm ra từ “lương tri” thế cho “cái ấy”. Và người Ấn Độ cũng lúng túng như cụ Vương khi mô tả hay diễn đạt Đấng Cao Cả là “Ấy”(Tat) rồi sau mới có tên là Brahma. Đó là trường hợp mà Ferdinand de Saussure cho rằng: “Ở trước, ở ngoài ngôn ngữ, tư duy chỉ là một khối hổn loạn, vô hình thức, một đám mây u ám.”(1)  
        
         Muốn diễn tả tư tưởng mới thì người ta phải tạo ra ngôn ngữ mới để biểu đạt chúng. Như thế tư tưởng đóng cái vai trò kiện toàn ngôn ngữ và tăng bổ cho ngôn ngữ càng ngày thêm phong phú hơn để con người biết cách lột tả trung thực hơn. Và cái mối quan hệ hữu cơ mật thiết đó không thể khẳng định tính ưu thế về bên nào. Nó bổ sung cho nhau. Nó sống trong nhau. Từ “lương tri” của Vương Dương Minh chính là “tư tưởng lương tri” của Vương Dương Minh. Chính tính hữu cơ này giữa tư tưởng và ngôn ngữ cho phép Delacroix phát biểu: “ ngôn ngữ vừa là hậu quả vừa là điều kiện của tư tưởng luận lý”. Vì thế, một khi con người mất khả năng ngôn ngữ hay ngôn ngữ bị hạn chế thì khả năng suy tưởng cũng hỏng theo hoặc bị thu hẹp lại.

         Tình cảnh vô ngôn là tình cảnh tối tăm tâm thức, là tình cảnh bi đát của con người, là tình cảnh thoái bộ của nhân loại, là tình trạng mất nhân tính, là trạng huống xuống cấp trở về nguyên bản sinh vật chưa tiến hóa – thôi rồi cái văn hóa mà mình đã bao thế hệ từ: “ Con Vật là Con Người giả trang dưới bộ lông lá và đi bốn chân. Con Sâu là Con Người đang bò vặn vẹo và trườn về sự triển khai nhân tính của mình.” Shri Aurobindo-“Apercus et Pensées" = "Yếu Cương và Mặc Tưởng" (Vũ Ngọc Anh chuyển ngữ sang Tiếng việt).                                                                                    
==========                                                                                                                     
(1)-dẫn lại của Thụy Khuê trong “Cấu Trúc Thơ” trích từ “Cours de linguistique générale” của
Ferdinand de Saussure- Ed. Payot, Paris,1972.



Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Chó tha đi rồi


Ushas là cựu hoa hậu hoàng vũ đã từng là đại sứ Liên Hiệp Quốc cho trẻ em toàn cầu và là đương kim danh ca Ấn Độ, và cũng đã từng ra vào bệnh viện để thay van tim.
Chẳng những trái tim cô tìm đến bệnh viện mà nó còn đến với thiền nữa. Thiền đã giúp cô an lạc và vui sống và sống có ích cho tha nhân. 
Trẻ em đối với cô chỉ là trẻ em: cô không nhìn ra đẳng cấp nơi chúng, cô không thể phân biệt được, dù cô cũng nhiều lần tìm ở một khía cạnh nào đó để phân tách nhưng cô vẫn không thấy. Cái mà cô tâm đầu ý hiệp với Thánh Gandhi như lúc mà Ngài còn đấu tranh với thực dân Anh: “chủ- đích của (chương trình tranh- đấu) là làm cho chế- độ đẳng-cấp và paria cùng những mê- tín dị-đoan khác phải tiêu tan”, và; “Chúng ta đều biết rằng hệ-thống đẳng-cấp đã trở nên lỗi thời. Nó cần phải được hủy bỏ nếu cả Ấn-độ-giáo lẫn quốc-gia Ấn-độ muốn tồn-tại và phát-triển”(1). 


Có chăng chỉ là giàu với nghèo. Giàu và nghèo chưa nói lên cái đẳng cấp. Kể cả màu da hay chủng tộc cô cũng không nhìn thấy cái bản tính đẳng cấp nơi nhân loại ấy dầu cho Thánh nhìn thấy “Tôi coi hệ-thống tứ đẳng-cấp và tứ giai-đoạn (âshrama) như một sự phân-công hợp-lý theo dòng giống”[sd.trên-tr.44-chú thích(13)].

Cô nhiền lần tuyên bố khẳng định cần phải xóa bỏ quan niệm đẳng cấp trong tư tưởng Ấn Độ, dù cho đó là ý nghĩ “gian lận” như thánh Gandhi khẳng định: “Nhưng nếu muốn chuyển từ đẳng-cấp này sang đẳng-cấp khác ở trong cùng một kiếp thì chỉ đưa tới kết quả tất-nhiên là một sự gian-lận lớn lao”[sd.trên-tr.44]. 

Chính cái nước đôi bất nhất mơ hồ của Thánh: “Tôi là tay cải cách triệt-để từ gót chân cho tới đỉnh đầu, nhưng nhiệt-tâm của tôi không khi nào xui dục tôi bài-bát một phần cốt- yếu nào của ấn-giáo cả.”(2) lại làm cho cô quyết tâm hơn, khẳng định và thống nhất hơn trong tư tưởng và việc làm của cô càng vững vàng thêm ra như kiền ba chân. Nhưng dù vậy, tuyệt nhiên cô vẫn kính trọng Ngài vì Ngài là Hội trưởng trong Liên-Ấn Bảo-Trợ Tẩn-lao Hội ( Hội bảo-trợ bò cái ở khắp Ấn-độ)-[sd.tr.III: Tựa]. 

Đó là giải đồng tâm của nàng với Ngài, đơn giản vì nàng cũng là giống cái.

Gandhi là Thánh là không ngoa. Quả lời ông ứng nghiệm nhản tiền! Và Ushas đã phải nhận cái giá của sự “gian lận” đó.

Là thế này, hôm đó, sau khi cô đi tắm ở sông Hằng về; cô vào Ashram của Thánh để thiền định thì đột nhiên cơn đau tim bùng phát và cô được đưa ngay vào bệnh viện tim, may thay lại là bệnh viện mà cô thường lui
tới – cô thường gọi là bệnh viện nhà – Lần này bác sĩ riêng của cô buộc phải quyết định thay tim cho cô vì van tim của cô được thay nhiều lần quá rồi không thể bổn cũ soạn lại được nữa. 

Sau cấp cứu, cô tĩnh lại và cô đồng ý ký vào biên bản thay tim – tim nhân tạo - Phẩu thuật thay tim tiến hành.

Bác sĩ chính của cas phẩu thuật này vừa hoàn tất thao tác cuối cùng là cắt rời quả tim khỏi động mạch chủ và đưa cho bác sĩ phụ và bác sĩ phụ chuyển cho cô y tá. Cô y tá đưa hai tay ra nhận và vừa xoay qua để bỏ vào khay thì cùi chỏ cô đụng phải tay của một bác sĩ khác làm cho quả tim rơi xuống đất. 

Nhanh nhơ chớp, không biết con chó đứng đó tự bao giờ, ngoạm ngay quả tim nóng hổi phóng ra cửa; cô y tá tri hô lên, đuổi theo nhưng con chó mất dạng. 

Bác sĩ trưởng cas mổ vừa cùng với các bác sĩ khác lắp ráp quả tim nhân tạo cho cô vừa hỏi nó đâu rồi, và được trả lời “chó tha đi rồi”. 

Sự cố gây xôn xao và làm cả bệnh viện hoản loạn. Nhưng rồi mọi việc cũng êm xui, và mừng nhất là sau 5 giờ cô hồi phục và tĩnh táo làm như thể chẳng có sự gì xảy ra.

Câu đầu tiên sau khi cô tĩnh: “Quả tim tôi đâu rồi?”. Bác sĩ điều dưỡng đang đứng bên giường trả lời: “Chó tha đi rồi!”. Cô hốt hoảng: “Vậy Atman(+) tôi đâu?”. Cô y tá đứng đó nói vào: “Chó tha đi rồi!”

Chó tha đi rồi” trở thành chuyện lớn ở Ấn Độ.

Các Ashram, các tu viện, các thiền viện, các viện đại học nhốn nháo lên.
Các gourou bắt đầu nao núng vì câu hỏi, mà hình như là câu hỏi đồng nhất “Atman (+) ở đâu?” cùng với câu trả lời cũng đồng nhất: “Chó tha đi rồi”.

Do sự truyền tụng của đệ tử Vedanta đoan quyết rằng ở chính giữ trái tim - cái khối huyết nhục ấy - có một bông sen nhỏ xíu biểu hiệu thần thánh của tư tưởng Ấn Độ. Cái bông sen của trái tim đó chính là chốn thẳm sâu nhất của nội tâm (akasa), chính là nơi ẩn cư của Atman: “ Chỗ sâu kín (guha) của trái tim, đó là vị trí của Buddhi và được coi như chính buddhi. Và ătman nằm sâu giữ trái tim cũng được coi là nằm sâu trong nội-trí (buddhi)(3) đã mau chóng trở thành đề tài sống cho những cuộc tranh luận sống chết chẳng những ở Ấn Độ mà còn lây lan sang các viện đại học Âu châu, và không dừng lại ở bất cứ biên giới quốc gia nào, ngay cả ớ Việt Nam – mà nhất là ở Trung Hoa cũng ồn ào không kém – Do là, một sự ngẫu nhiên kỳ lạ, có người cho là kỳ thú không khác gì các pha
kiếm hiệp kỳ tình ly kỳ đệ nhất thiên hạ. Ấy là ở Thượng Hải cũng vừa
thay tim nhân tạo cho một minh tinh màng bạc nổi tiếng Triệu A’Vy, chỉ trịch sau Ushas một ngày. Mà ở đây e còn gay gắt hơn vì câu hỏi “lương tâm ở đâu? Suy nghỉ ở đâu?” vì câu trả lời cũng y hệt: “Ở trong tim”.[“Ngày xưa tưởng lầm rằng trái tim là chỗ nghĩ ngợi lo lắng, nên phàm cái gì thuộc về nghĩ ngợi lo lắng đều gọi là tâm”-Đào Duy Anh-Hán Việt giản yếu-xb.Minh Tâm-]

Ushas có một trái tim thật bao la khi cô trả lời cuộc phỏng vấn trước các nhà báo và các hãng thông tấn quốc tế về việc thay tim của cô.

Hỏi. - Cô cho biết, tim của cô đâu rồi?
Ushas. - Chó na đi rồi. Còn cái đang trong lồng ngực của tôi đây là “quả tim của tôi”

Hỏi. - Vậy Atman của cô có trong quả tim nhân tạo đó không?
Ushas. - Xin kể hầu quí vị một câu chuyện: Hồi nhỏ đứa bạn tôi bị đứt một ngón tay; cô ấy lo lắng lắm, bèn đi hỏi một vị gourou: “ thưa thầy, khi con làm đứt ngón tay thì Atman của con có bị đứt không hay nó thụt vào trong?” Vị gourou của chúng tôi bảo “ nó không đứt mà nó cũng chẳng thụt vào, nó “ngụ ở nơi sâu kín trong tâm, chốn an vị của Đấng Tối Cao”[Tiết 3-Katha Upanishad,I], tức nó nằm ở giữa con tim con đó.[Kinh Upanishad dạy rằng: “Khi thân xác hấp-hối và yếu dần, linh-hồn thu-thập hết năng-lực vào trong tim. Khi cái ngã ở nơi con mắt tắt đi thì người đó không còn nhận biết hình-thể gì nữa. Khi ấy tất cả mọi cảm giác, ý-nghĩ và ngôn-ngữ đều ngưng tắt và trở nên một. Khi ấy điểm sáng trong tâm lóe lên và linh-hồn ra đi mang theo cả vốn liếng tri-thức cùng công-đức và tội-lỗi”](4). Bao giờ tim con ngừng hoạt động, ấy là lúc nó ra đi để nhập vào đại ngã Brahman, và con chính là Brahman.”
- Đố quí vị, giờ thì Atman tôi ở đâu?

Một nhà báo trả lời:- Nó đang ở trong bụng con chó.
Ushas. – Nó đang ở trong đầu ông đó.

Hỏi. – Xin cô nói rõ hơn.
Ushas. – Khi mà con người chưa đi sâu được vào vật thể thì họ lấy cái kinh nhiệm thường nghiệm làm dữ kiện cho suy luận của họ. Khả năng suy lý là khả năng bẩm sinh của con người: diễn dịch và tổng hợp là hai khả năng của luận lý ấy. Câu chuyện “mặt trời quay quanh quả đất” là một ví dụ. Những suy nghĩ ấy, những kết luận ấy là đương nhiên, và đương nhiên đúng. Đúng cho đương thời. Đúng cho não trạng của thời đại. Thời đại này bạn cũng khó bác bỏ được sự hiện hữu của thượng đế mặc dù người tin cũng như bạn đều không chứng minh được. Trí não con người vươn xa lắm, chỉ khi cá nhân nào vượt thời đại thì mới có thể khám phá ra cái lỗi thời của quan niệm cũ. Dẫu là quan niệm cũ ấy ngay chính đương thời cũng đã lỗi thời rồi mà gặp phải cái đầu cũng cũ rích nữa thì cái lỗi thời cũng mới toanh. Nói như Héraclite: “Thần thánh mà chiến đấu với cái ngu thì thần thánh cũng phải thua nữa là!”. Giordano Bruno, người tiếp nối công trình của Copernic, bị Tòa Án Tôn Giáo thiêu trên giàn hỏa tháng hai năm 1600 là bằng chứng, chỉ vì thành thật ngây thơ đến dại dột đi công bố “quả đất quay quanh mặt trời” “mà còn đi xa hơn nữa với ý kiến là có thể những thế giới khác cũng có người ở với những sinh vật văn minh bằng hay cao hơn chúng ta”(5).Cả John Calvin, người sáng lập một hệ phái Tin Lành (Calvinisme) cũng “hùng hồn buộc tội Copernic, nhắc lại bài thánh ca: “quả đất đã được đặt định, nó không thể di chuyển đi được” và ông đã giận dữ hỏi: “Ai dám cả gan đặt uy quyền của Copernic trên Chúa Thánh Thần?(6). Bruno thiếu khôn ngoan…khác với Galilée “ phải quì gối tuyên thệ từ bỏ mọi tin tưởng vào các thuyết của Copernic ”(7) nên Galilée thoát chết nhờ: một sự nhịn, chín sự lợi.

Hỏi. – Có khi nào cô bắt đầu nhiều chuyện rồi không đó?
Ushas. – Vâng, phải vậy thôi. Chúng ta đang đi vào câu chuyện dài. Dài dằng dặc nữa là khác. Câu chuyện buồn.

Hỏi. – Chuyện thay tim làm cô buồn?
Ushas. – Tôi vừa được y khoa cứu. Tôi cám ơn nhân loại, tôi cám ơn sự nổ lực của con người mang lại bao điều tốt đẹp…vải vóc - từ xe đạp đến xe hơi đến máy bay tàu thủy xe lửa – điện - radio-tv-computer, âm nhạc -hội họa -điêu khắc -thơ văn…toán học -khoa học…kỹ thuật kiến trúc -công kỹ nghệ, và mọi thành quả khó nhọc khác từ công lao của bao người, bao đời cho nhân loại chúng ta hôm nay ân hưởng…làm cho con người cần nhau và tin nhau hơn, quả đất đẹp thêm ra. Xin thưa với quí vị: tôi đang vui và quá hạnh phúc vì được sinh ra trong thời đại này. Cho tôi xin nói lời cám ơn Ba-Mẹ tôi đã cho tôi sự sống. Xin cảm ơn nhân loại nâng đở, bảo bọc sự sống của tôi.

Hỏi. – Còn chuyện buồn?
Ushas. – Buồn là buồn vì nhân loại bị các tay phù thủy hướng dẫn– như ngôn từ Đức Phật- và “Đứa mù dẫn đường” mà Đức Jésus nói [Mat.23:16]

Hỏi. – Khi nào cô hết buồn?
Ushas. - Bao giờ nhân loại còn buồn thì tôi còn buồn.

Hỏi. – Cô chờ đến tận thế à?
Ushas. – Năm 2000 đã tận thế rồi sao cứ đòi tận thế mãi vậy?

Hỏi. – Chuyện Y2K qua rồi, cô nhắc lại làm gì?
Ushas. – “Ôn cố, tri tân.”

Hỏi. – Liệu có ích gì?
Ushas. – Chỉ để mong ai đó thà làm thinh còn hơn nói bậy, đừng manh nha thêm nữa.

Chỉ xin họ “biết thì thưa thì thốt, không biết thi dựa cột mà nghe”, như Đức Khổng từng dạy: “Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết; ấy mới thật là biết.”, mà W. Shakespeare thì: “Không có di sản nào quí giá bằng lòng trung thực.”

Mong họ học được chữ “THÀNH” của Ngài Khổng ấy cho nhân loại thừa đau khổ được nhờ như nhân loại đang hưởng bao nhiêu công lao của những người ít nói mà âm thầm cống hiến cả trí lực lẫn tâm lực cho văn minh con người.

Hỏi. – Cô tưởng văn minh đem lại hạnh phúc cho con người?
Ushas. – Thời đồ đá có cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Thời đồ đồng có cả đau khổ lẫn hạnh phúc. Thời nguyên tử cũng có cả khổ đau và hạnh phúc. Thời @ cũng thế thôi, có khác chi? Tiếc cho người không biết sử dụng con dao chứ người thợ rèn có lỗi gì; sao không biết ghi công họ vào danh
sách “ân nhân của nhân loại?” Họ rèn ra lưỡi cày, sao lấy lưỡi cày của họ rèn ra gươm giáo?

Hỏi. – Giờ cô thấy trong người cô thế nào?
Ushas. – Giờ thì y học đã minh chứng cả “cái Atman” lẫn “cái Tâm” không hiện diện trong quả tim tôi rồi chứ?
Vì Atman không an cư lạc nghiệp trong tim tôi nên tôi mới còn “cái tâm” để bộc bạch cùng quí vị đây.
Vậy thì giờ chúng ta biết rõ: uy quyền của Copernic đã được đặt trên Chúa Thánh Thần rồi, phải không? Và Copernic có chiến thắng là chỉ “chiến thắng sự ngu dốt và lòng câu chấp”(8) thôi.

Chủ nhiệm buổi phỏng vấn. – Xin cô một lời sau cùng.
Ushas.– Cho tôi xin mượn một ngạn ngôn của người Pháp:
-“Tant d’hommes ne seraient pas insolents si tant d’autres n’étaient pas si lâches
[=Nếu không có nhiều người khiếp nhược thì cũng không có nhiều người ngạo mạn thế.]

Chú thích:
(1) dẫn lại Lê Xuân Khoa-[“Triết học nhập môn Ấn Độ”-tr.49(chú thích 24 và 25)-TT.Học-Liệu Bộ Giáo-Dục xb.1972-]
(2) [“Đại tư-tưởng của Thánh Gandhi-”tr.80 trong “Tựa tr.IIvàIII-“Thơ gởi về Ashram”-Gandhi-Nguyễn-Văn-Nhuận dịch-xb.Nguyễn-Văn-Huấn-Saigon-1949]
(3) Hoàng-Sỹ-Quý [“Triết sử Ấn Độ II”.Vedanta-tr.46 – Hưng-Đông Văn-Giáo xb.1974]
(4) Lê Xuân Khoa- sd.-Upanishad “Về vấn đề giải thoát”tr.138.
(5) “Những tác phẩm biến đổi thế giới”-tr.273- Hoài Châu và Từ Huệ dịch- Văn Đàn xb-1970-]
(6) [sd.trên (5)-tr.272]
(7) [sd.trên (5)-tr.273]
(8) [sd.trên (5)-tr.277]

 (+) Hình ảnh mà Vedanta gợi ý cho chúng ta có thể ý niệm được mối liên hệ giữa Đấng Sáng Tạo [Brahman] và Tạo Sinh [Atman] là Biển Cả và Giọt Nước Biển. Từng giọt nước biển là từng hiện sinh, là từng tạo vật, là một phần của biển cả; tức Atman là bản thể/tính thể của mỗi tạo sinh, được triết hóa thành công thức: “Brahman = Atman” hoặc   được phát biểu thành Thánh ngôn: “Om Tat Tat = Tôi là Đấng Ấy.” hay như Vedanta nói: “Tat Tvam Asi” = Ngươi là Đấng Ấy.

-Và cụ thể hơn, nói như Vivekananda: “Khi bạn cho con chó một miếng ăn, thì bạn sùng bái con chó như Thượng đế vậy, Thượng đế ở trong con chó đó, Thượng đế là con chó đó. Ngài là tất cả và ở trong tất cả.” [Vivekananda-“Tôn Giáo Là Gì,” tr.226; Vương Gia Hớn; An Tiêm; 1970]